Định kiến giới - một rào cản đối với sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ Việt Nam

06/11/2009
Đảng và Nhà nước ta luôn coi vấn đề bình đẳng giới và khuyến khích sự tiến bộ của phụ nữ là một mục tiêu quan trọng của phát triển quốc gia.

Những nỗ lực của Việt Nam nhằm đạt được bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ được phản ánh thông qua hệ thống văn bản nghị quyết, pháp luật quan trọng gần đây nhằm hướng tới bình đẳng giới, như Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (2007), Luật bình đẳng giới (2006), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2007), Chiến lược quốc gia Vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010.

Việt Nam cũng đồng thời được ghi nhận là một quốc gia Đông Nam Á thành công nhất trong việc xoá bỏ khoảng cách giới trong suốt 20 năm qua. Bình đẳng giới của Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, là một trong những nước có thành tựu về bình đẳng giới cao. Tuy nhiên, những sự khác biệt trên cơ sở giới vẫn còn phổ biến trên nhiều lĩnh vực. Phụ nữ vẫn còn kém hơn nam giới nhiều ở bậc học vấn cao, tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tham gia quản lý và ra quyết định. Cơ hội có việc làm và thu nhập của phụ nữ so với nam giới còn hạn chế, phụ nữ gặp nhiều khó khăn khi tìm kiếm việc làm. Bạo lực gia đình, tệ nạn mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em gái vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức. Tỷ lệ cán bộ nữ trong lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, văn hóa, khoa học – công nghệ còn quá thấp.

Có khá nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng bất bình đẳng giới, song một vấn đề bức xúc nhưng không dễ gì thay đổi ngày một ngày hai, đó là định kiến giới.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, giữa phụ nữ và nam giới không có sự khác biệt về mặt xã hội, mà chỉ có sự khác biệt về mặt sinh học. Tuy nhiên, trong thực tế, cho đến bây giờ các định kiến giới vẫn còn tồn tại và có thể gặp ở nhiều nhóm xã hội: cả phụ nữ và nam giới, cả trong cán bộ lãnh đạo - những người có vai trò quyết định đối với việc hoạch định và thực hiện chính sách đối với phụ nữ và người dân.

Vậy thế nào là định kiến giới? Các định kiến giới là một tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho là thuộc tính của nam giới hay phụ nữ. Các quan niệm này thường sai lệch và hạn chế những điều mà một cá nhân có thể làm. Ví dụ: một số định kiến coi phụ nữ là phụ thuộc, yếu đuối, thụ động, dịu dàng và thứ yếu. Một số định kiến coi nam giới là độc lập, mạnh mẽ, có năng lực, quan trọng hơn và là người ra quyết định tốt hơn; hoặc "trai anh hùng, gái thuyền quyên", hay "trai tài, gái sắc". Trong thực tế, những đặc điểm tính cách này không chỉ của riêng nam giới hay phụ nữ, mà cả nam giới và phụ nữ đều có thể mang những đặc điểm này. Tuy nhiên, những đặc tính đó lại thường bị gán cho nam hay nữ dưới góc độ phê phán và làm cho họ bị thiệt thòi xét theo một khía cạnh nào đó. Ví dụ, người ta hay cho rằng: phụ nữ không đủ mạnh để làm lãnh đạo, hay nam giới không có khả năng chăm sóc con cái. Chính định kiến đó đã hạn chế phụ nữ hoặc nam giới tham gia vào những công việc mà họ có khả năng hoàn thành một cách dễ dàng. Các định kiến giới hiện nay không chỉ gây bất lợi cho phụ nữ mà ngay cả nam giới cũng bị bất lợi, như hạn chế cơ hội của nam giới tham gia vào công việc chăm sóc gia đình hay lựa chọn một hành vi lành mạnh là không hút thuốc hay không uống nhiều rượu.

Tuy định kiến giới gây bất lợi cho cả nam và nữ, nhưng định kiến giới thường đặt phụ nữ ở vị thế bất lợi nhiều hơn so với nam giới, sự bất lợi đó được thể hiện trên nhiều khía cạnh. Một trong những định kiến giới biểu hiện khá rõ là gắn phụ nữ với vai trò gia đình, coi việc nội trợ, chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái là của phụ nữ. Đáng chú ý là, hiện nay nhiều người đang cổ suý cho tư tưởng đưa phụ nữ quay trở về với gia đình. Từ suy nghĩ đó nhiều phụ nữ đã bị hạn chế trên con đường học tập, lao động, phấn đấu và vươn lên trong sự nghiệp, giảm khả năng đóng góp nhiều hơn về sức lực và trí tuệ cho xã hội.

Nhìn bề ngoài của cuộc sống hầu như thấy rằng phụ nữ đã được “lên ngôi”, họ được bình đẳng lắm rồi. Trong tư tưởng của nam giới, với tư cách là người chồng, có lẽ cũng khá nhiều người ủng hộ vợ tham gia hoạt động xã hội. Nhưng không ít nam giới cho phép vợ “thoải mái” tham gia công việc xã hội nhưng vẫn phải làm tốt việc nhà. Đàn ông Việt Nam có định kiến giới gì đâu! Nhưng vấn đề là họ muốn vợ của họ vừa là người xuất sắc ở cơ quan, vừa là người bà, người mẹ chăm chỉ trong gia đình. Trong tình hình hiện nay, do yêu cầu công việc, nhiều phụ nữ phải đầu tư nhiều thời gian mới nâng cao được chuyên môn, nghiệp vụ. Nếu chỉ cần có thêm một ít thời gian trong ngày công việc của họ sẽ tốt hơn, có thể đem lại rất nhiều lợi ích cho nhiều người. Nếu vừa làm tốt bổn phận trong gia đình vừa làm tốt công việc xã hội thì như vậy, nhiều phụ nữ phải gánh vác gấp đôi trách nhiệm, bởi họ không những làm việc để kiếm thu nhập, mà còn là người chủ yếu đảm đương các vai trò làm mẹ, làm vợ trong gia đình. Nếu xét tương quan thời gian lao động trong một ngày giữa phụ nữ và nam giới cho thấy, thời gian lao động của phụ nữ nhiều hơn, bởi họ phải làm các công việc gia đình nhiều hơn (thời gian làm việc trung bình của phụ nữ là 13 giờ/ngày trong khi của nam giới chỉ khoảng 9 giờ). Do vậy, phụ nữ ít có thời gian để học tập, nghỉ ngơi, giải trí và tham gia hoạt động xã hội so với nam giới.

Gánh nặng công việc gia đình đã làm cho nhiều phụ nữ không thể vươn xa trong sự nghiệp. Chúng ta đều biết ở thời kỳ CNH – HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như nam giới, phụ nữ cần phải có kiến thức chiều sâu, trình độ ngoại ngữ, tin học, sự nhạy bén và lăn lộn thực tế cuộc sống... Trong khi đó, công việc gia đình vẫn là trách nhiệm nặng nề của người phụ nữ. Và cũng chính vì vậy mà hậu quả là nhiều người phụ nữ giỏi giang, được học hành tử tế đã phải nhường bước cho chồng và lui về chăm sóc gia đình, để giữ tròn hạnh phúc.

Vì những lý do gia đình mà nhiều phụ nữ chấp nhận tụt hậu, hoặc phấn đấu có chừng mực, chỉ ở mức độ hoàn thành công việc. Đó cũng là lý do cùng được đào tạo như nhau mà nam giới phát triển tốt hơn, có vị trí cao hơn, được học hành đào tạo chuyên môn cao hơn. Đó cũng là nguyên nhân tụt hậu của giới nữ trong giáo dục, đào tạo, trong khoa học, công nghệ và cả trong lãnh đạo và quản lý.

Tại không ít tổ chức, cơ quan, một số phụ nữ không được đề bạt làm lãnh đạo (ngay cả khi người phụ nữ này có trình độ và kinh nghiệm phù hợp) bởi mọi người vẫn cho rằng, chỉ có nam giới mới nên làm việc “đại sự”, phụ nữ thì chỉ nên làm việc công việc nhẹ nhàng để có thời gian dành cho gia đình. Tư tưởng này không chỉ ở người dân, mà cả trong lãnh đạo, và đặc biệt ngay cả trong một bộ phận phụ nữ cũng có định kiến với giới nữ của mình. Ngoài hiện tượng níu kéo áo nhau ở một số phụ nữ, thì vấn đề ở đây vẫn là do định kiến giới, coi nam giới ở vị trí lãnh đạo tốt hơn là phụ nữ nên trong các kỳ bầu cử, những người gạt phụ nữ khỏi danh sách bầu cử có khi không phải là nam, mà lại là nữ.

Không ủng hộ phụ nữ làm công tác xã hội là một trong những nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý còn thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ. Phụ nữ chiếm tỷ lệ không thua kém trong nhiều ngành nghề và học tập trong các trường, lớp đào tạo (đại học 47,23%; cao đẳng 50,01%), nhưng số nữ tham gia lãnh đạo, quản lý đạt tỷ lệ thấp. Nữ lãnh đạo, quản lý ở cấp Trung ương, cấp vụ trở lên và cán bộ nữ chủ chốt cấp tỉnh hiện nay hầu hết ở độ tuổi trên 50; tỷ lệ cán bộ nữ cấp phòng ở huyện, quận giảm... tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XII thấp hơn tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XI (khóa XI là 27,31%, khóa XII là 25,76%).

Công việc gia đình và thiên chức làm mẹ cũng gây bất lợi cho phụ nữ trong tuyển dụng lao động. Theo Sở LĐ &TBXH TP Hà Nội, cho biết, trong hàng trăm doanh nghiệp ở Hà Nội, từ đầu năm đến nay, chỉ có 4 trong số hàng trăm doanh nghiệp đăng ký sử dụng nhiều lao động nữ. Đó mới chỉ là đăng ký. Vì nhận một phụ nữ vào làm, sự đóng góp của phụ nữ cho lợi nhuận của doanh nghiệp chưa thấy đâu đã thấy phải chi ra rất nhiều thứ như, chế độ thai sản, giờ cho con bú, xây nhà vệ sinh ... Chính vì điều này mà ngay cả chủ doanh nghiệp là nữ cũng rất ngại khi nhận lao động nữ. Mặc dù ở những xí nghiệp đông lao động nữ, doanh nghiệp đó được miễn giảm thuế thu nhập và được tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi. Nhưng vấn đề miễn, giảm thuế và tiếp cận vốn ưu đãi không phải doanh nghiệp nào cũng biết được thủ tục để tiếp cận. Trong mục tuyển dụng lao động đăng trên các báo cho thấy, nhiều công ty chỉ tuyển lao động nam mặc dù công việc đó cũng phù hợp với phụ nữ, hoặc có những thông báo tuyển dụng cùng một công việc như nhau, ngành học nhưnhau, nhưng yêu cầu đối với nữ phải có bằng tốt nghiệp loại khá, giỏi, cònnam chỉ cần tốt nghiệp loại trung bình.

Xuất phát từ tình hình trên, việc xóa bỏ định kiến giới nói chung là một việc cần làm, trong đó xoá bỏ định kiến giới coi việc gia đình, nội trợ là của phụ nữ cần phải sớm được xoá bỏ với một số giải pháp như sau:

Một là, cần nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho người dân, cộng đồng và xã hội. Công tác tuyên truyền về giới góp phần thay đổi biểu tượng giới. Những hình ảnh phụ nữ có thể gắn với vai trò gia đình, song cũng có thể gắn với vai trò xã hội, là bác sĩ, là nhà chính trị, nhà lãnh đạo... Hình ảnh nam giới có thể là người làm công việc gia đình, đang bế con nhỏ, bán hàng hoặc trong bộ y phục người mẫu...Những biểu tượng đó làm thay đổi nhận thức trong công chúng rằng, nam hoặc nữ đều có thể làm bất cứ công việc gì phù hợp với khả năng của họ nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội mà không có sự phân định rõ ràng cho một giới nào khác. Từ nhận thức giới được thay đổi thông qua biểu tượng giới, hành vì giới sẽ thay đổi dần theo hướng tiến bộ bình đẳng nam nữ.

Một mặt chúng ta khẳng định khả năng trí tuệ của hai giới như nhau nhưng mặt khác chúng ta cũng thừa nhận sự khác biệt về giới tính để đưa phụ nữ vào đúng vị trí, làm tốt chức năng của giới mình. Bình đẳng giới không có nghĩa là cân bằng 50 – 50 giữa nam và nữ về năng suất lao động, về những điều kiện lao động. Phụ nữ có thể bình đẳng với nam giới về khả năng tư duy, về quyền hưởng thụ nhưng thiên chức và điều kiện phát triển của mỗi giới phải khác nhau. Phụ nữ ngày nay trong xu thế phát triển sẽ ngày càng bộc lộ những phẩm chất mới. Tất cả những phẩm chất ấy cần được phát huy, nếu không bị định kiến trói buộc thì sẽ trở thành sự tiến bộ và phát triển và họ sẽ đóng góp được rất nhiều cho sự phát triển của đất nước.

Hai là, để có thể phát huy được vai trò và khả năng của phụ nữ, các dịch vụ xã hội dành cho gia đình cần được phát triển một cách rộng rãi. Từ nhà trẻ, mẫu giáo, đến các thiết bị hỗ trợ bếp núc, chăm sóc gia đình cần sẵn có và phù hợp với thu nhập để phụ nữ dễ dàng được tiếp cận. Việc nâng cao địa vị kinh tế cho phụ nữ trong gia đình và xã hội cũng hết sức quan trọng. Đối với phụ nữ nghèo, phụ nữ nông thôn vùng sâu, vùng xa, hiện có các chương trình tín dụng cho vay các nguồn vốn từ các Ngân hàng, nhất là Ngân hàng chính sách xã hội, đã làm cho nhiều phụ nữ có điều kiện đầu tư sản xuất, kinh doanh, cải thiện thu nhập, có tiếng nói trong gia đình và đã dần ít lệ thuộc hơn vào người chồng. Khắc phục về cơ bản tình trạng bất bình đẳng trong một số lĩnh vực như: quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở, các phúc lợi xã hội, chế độ bảo hiểm...

Ba là, phụ nữ cần được giảm bớt gánh nặng gia đình. Muốn vậy, không chỉ chia sẻ, nam giới cần phải tham gia vào công việc gia đình cùng với phụ nữ. Tuy nhiên, trong khi bình đẳng giới đang là một quá trình thì việc nam giới chia sẻ công việc gia đình với phụ nữ cũng có một ý nghĩa to lớn. Chính sự chia sẻ và cảm thông của người chồng đã làm cho nhiều người phụ nữ đạt được thành công trong sự nghiệp.

Bốn là, ở những tổ chức đông nữ và có phụ nữ tham gia thì, lãnh đạo ở nơi đó cần được nâng cao nhận thức giới để từ đó có được công bằng giới trong tuyển dụng, đào tạo, đề bạt. Đặc biệt lãnh đạo cơ quan và xã hội cần tạo điều kiện để người phụ nữ có thời gian làm công việc gia đình, không nên coi phụ nữ cũng như nam giới trong việc phân công, yêu cầu công việc mà không tính đến việc người phụ nữ phải thực hiện thiên chức làm mẹ.

Năm là, đối với bản thân phụ nữ, cũng cần có sự kết hợp hài hoà chức năng xã hội và gia đình. Bởi đây là nét đặc trưng của phụ nữ nước ta. Là phụ nữ thường phải có gia đình, phải sinh con và nuôi dạy con. Đối với phụ nữ, dung hoà giữa gia đình và công việc xã hội là điều không mấy dễ dàng. Tuy nhiên đã có nhiều phụ nữ biết cách giải quyết tốt hai chức năng này và đã trở thành người mẹ hiền, vợ đảm, lại là nhà quản lý giỏi, nhà khoa học thành đạt. Kinh nghiệm của họ mà nhiều phụ nữ cần học tập là, cố gắng thu xếp một cách khoa học để vừa có thời gian cho gia đình, vừa hoàn thành tốt công việc xã hội.

Các giải pháp trên đây tưởng chừng không khó lắm khi thực hiện, nhưng thực sự đây là cả một vấn đề đòi hỏi phải có sự thống nhất cao trong tư tưởng và hành động của các nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo, quản lý, của người dân, và đặc biệt của cả nam và nữ. Bởi vì, như Bác Hồ đã từng nói: Trọng trai, khinh gái là thói quen mấy ngàn năm để lại, nó ăn sâu trong nếp nghĩ việc làm của người dân... giải phóng phụ nữ đó là cuộc cách mạng to và khó. 

Phạm Hạnh Sâm (Trưởng ban Tuyên giáo – Hội LH

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video