Đổi mới công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới

31/03/2006
Qua từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác vận động phụ nữ và chủ động đổi mới phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngay từ những ngày đầu đổi mới, Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) chỉ rõ: Đường lối vận động phụ nữ của Đảng được thấu suốt trong cả hệ thống chuyên chính vô sản, được cụ thể hoá thành chính sách, pháp luật. Các cơ quan nhà nước với sự phối hợp của các đoàn thể, cần có biện pháp thiết thực tạo việc làm, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, thực hiện đúng Luật Hôn nhân và Gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ kết hợp được nghĩa vụ công dân với chức năng làm mẹ, xây dựng gia đình hạnh phúc.

Trước yêu cầu đổi mới đất nước, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ tình hình phụ nữ và phong trào phụ nữ, ngày 12-7-1993, Bộ Chính trị khóa VII đã ban hành Nghị quyết 04/NQ-TƯ về "Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới", trong đó chỉ rõ: Giải phóng phụ nữ là một mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mưói và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; mục tiêu của sự nghiệp giải phóng phụ nữ, xác định sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình.

Tới Đại hội VIII (tháng 7-1996), Đảng tiếp tục nhấn mạnh một số nhiệm vụ chủ yếu trong công tác vận động phụ nữ: Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000; đặc biệt coi trọng việc đào tạo nghề nghiệp, tạo việc làm, phát triển kinh tế gia đình, cải thiện đời sống, bảo vệ sức khoẻ phụ nữ, trẻ em; quan tâm phát triển Đảng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, tăng tỷ lệ cán bộ nữ trong cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ở các cấp, các ngành.

Tại Đại hội IX, Đảng tiếp tục đổi mới tư duy về công tác vận động phụ nữ, cụ thể hoá các quan điểm, chủ trương cho phù hợp với tình hình mới, nhất là việc thực hiện luật pháp, chính sách bình đẳng giới, nhằm nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt cho phụ nữ. Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp, chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn, có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Để các quan điểm, chủ trương lớn của các Đại hội đi vào cuộc sống, Đảng ban hành các chỉ thị, nghị quyết trên từng lĩnh vực. Trong 20 năm đổi mới, Đảng đã ra ba văn bản quan trọng ( Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 28 của Ban Bí thư, Chỉ thị 37 của Ban Bí thư) nhằm làm sâu sắc hơn quan điểm, chủ trương, đuờng lối công tác vận động phụ nữ và công tác cán bộ nữ. Đây là những vấn đề chiến lược, thiết thực mà các cấp uỷ, chính quyền các cấp, các ngành, các đoàn thể, trong đó trước hết và trực tiếp là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phải thực hiện để tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển quyền bình đẳng và toàn diện.

Theo đó, Ban Dân vận Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương đã phối hợp với Đảng đoàn Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 44, tổ chức nhiều đợt kiểm tra công tác phụ vận của Đảng để có sự chỉ đạo kịp thời. Việc tổng kết các nghị quyết, chỉ thị này không những đánh giá tổng thể kết quả thực hiện mà còn có ý nghĩa động viên, khuyến khích phụ nữ phát huy sức mạnh tiềm năng của mình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời có tác dụng tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân quan tâm hơn nữa đến công tác vận động phụ nữ và công tác cán bộ nữ.

Thực hiện các quan điểm của Đảng về công tác vận động phụ nữ, trong những năm qua, nhiều chính sách của Nhà nước đã được ban hành và sửa đổi nhằm tạo ra cơ chế thuận lợi hơn cho việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ và giải quyết những vấn đề nảy sinh có liên quan đến quyền, lợi ích của phụ nữ, như: Chỉ thị số 766/TTg của Thủ tướng Chính phủ về phân công trách nhiệm thực hiện các biện pháp ngăn chặn việc đưa trái phép phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài; Nghị định 19 của Chính phủ về quy định trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp tạo điều kiện cho các cấp Hội Phụ nữ hoạt động và tham gia quản lý nhà nước; Luật Lao động trong đó quy định rõ các nội dung liên quan đến chính sách đối với lao động nữ; sửa đổi Luật Hôn nhân và Gia đình, bổ sung điều khoản quyền sở hữu và thừa kế trong trường hợp chết và ly dị; sửa đổi Luật Đất đai, trong đó có quy định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cả vợ lẫn chồng…

Thực hiện những quan điểm chỉ đạo về công tác vận động phụ nữ của Đảng, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội có liên quan trực tiếp đến phụ nữ được triển khai, tổ chức thực hiện đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận:

Trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế: Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách cho người nghèo nói chung và phụ nữ nói riêng được vay vốn, đào tạo nghề, hỗ trợ tạo việc làm, chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi... Chính vì vậy, tỷ lệ phụ nữ và hộ gia đình phụ nữ được vay vốn, tập huấn khuyến nông không ngừng tăng, tỷ lệ phụ nữ thiếu việc làm giảm đáng kể, tỷ lệ đói nghèo do phụ nữ làm chủ hộ giảm dần, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện đáng kể.

Trong lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội: Nhiều chương trình quốc gia đã tập trung đầu tư cho phụ nữ: phụ nữ mang thai được tiêm chủng, trẻ em gái trong độ tuổi được xóa mù chữ, tỷ lệ trẻ em gái đến trường ngày càng tăng, vấn đề chống bạo lực đối với phụ nữ được Nhà nước ta và các tầng lớp xã hội quan tâm, đẩy lùi từng bước.

Vị thế của người phụ nữ được nâng lên, chất lượng và số lượng cán bộ nữ được cải thiện, tuy chưa tương xứng với lực lượng lao động nữ và cán bộ nữ, nhưng trên thực tế, ngày càng có thêm nhiều phụ nữ được tham gia lãnh đạo, quản lý, qua đó càng khẳng định rõ vị thế, vai trò và phát huy tốt năng lực của mình.

Về phần mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về công tác phụ vận và đây là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên trong thời gian qua.

Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, Đại hội VI, VII và VIII của Hội xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, nội dung, phương thức hoạt động, mô hình tổ chức của các cấp Hội. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, Hội đã phát động nhiều phong trào thi đua sôi nổi, được đông đảo các tầng lớp phụ nữ hưởng ứng; đồng thời, chỉ đạo sâu sát các cấp Hội theo chương trình trọng tâm và thực hiện sâu rộng từ cơ sở. Tháng 3 - 1989, Hội phát động hai cuộc vận động "Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình" và "Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học". Qua đây, đã khơi dậy, phát huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất, thúc đẩy kinh tế gia đình phát triển và nuôi dạy con tốt, giảm mạnh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Năm 2002, Đại hội IX của Hội Phụ nữ phát động phong trào "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc" với 6 chương trình trọng tâm. Hiện nay, đã có hơn 10 triệu phụ nữ đăng ký tham gia phong trào thi đua, đã có hơn 8 triệu hội viên, phụ nữ đạt 3 tiêu chuẩn của phong trào.

Phong trào phụ nữ từng bước phát triển và có nhiều đóng góp quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, dân số - kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe phụ nữ trẻ em, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống tệ nạn xã hội, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường, hướng dẫn phụ nữ tham gia thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Qua các thời kỳ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam luôn tập trung đầu tư chỉ đạo các hoạt động xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc… đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế. Bên cạnh đó, Hội tổ chức nhiều hoạt động lớn có ý nghĩa chính trị xã hội, tạo được sự đồng tình, hưởng ứng rộng rãi của phụ nữ cả nước, được các cấp, các ngành hoan nghênh.

Là một tổ chức chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, những năm qua, Hội luôn quan tâm đến các hoạt động mang lại quyền lợi thiết thực cho phụ nữ. Trong xóa đói giảm nghèo, từ phong trào phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, giúp ngày công, cây trồng, con giống…đến hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, vươn lên làm giàu chính đáng. Chỉ tính 5 năm (2001 - 2005), hàng chục triệu lượt phụ nữ được vay các nguồn vốn qua "kênh" của Hội, trên 350 ngàn hộ nghèo do phụ nữ làm chủ được Hội giúp đỡ vốn và hướng dẫn cách làm ăn, trong đó trên 115 ngàn hộ đã thoát nghèo.

Đa dạng hóa các mô hình tập hợp phụ nữ thông qua các hình thức: tham gia hoạt động kinh tế, tín dụng tiết kiệm, hoạt động xã hội, hoạt động nâng cao kiến thức, hoạt động theo sở thích, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao... nhằm tập hợp, thu hút hội viên, giáo dục tuyên truyền chị em thực hiện tốt nhiệm vụ của Hội đồng thời tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Hội tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, củng cố nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở hội; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Hội tăng cường hợp tác với các ngành, các tổ chức trong nước và quốc tế tạo điều kiện nâng cao vai trò của Hội trong việc tham gia các chương trình kinh tế - xã hội và phấn đấu vì mục tiêu bình đẳng và phát triển của phụ nữ.

Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới của đất nước, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công tác vận động phụ nữ cũng còn không ít khó khăn, trở ngại. Giải quyết việc làm cho phụ nữ, lao động nông thôn dôi dư, việc nâng cao trình độ tay nghề của phụ nữ còn hạn chế. Một bộ phận phụ nữ, trong đó có không ít cán bộ Hội ở vùng núi cao còn mù chữ; các tệ nạn xã hội ngày càng tăng, tác động tiêu cực đến đời sống của phụ nữ. Phong trào phụ nữ chưa đồng đều, tỷ lệ thu hút, tập hợp phụ nữ tham gia sinh hoạt Hội còn thấp. Một số tổ chức cơ sở đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ về công tác vận động phụ nữ, nhận thức về giới còn hạn chế, chưa tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ nữ phát triển, chưa xác định được công tác vận động phụ nữ là của Đảng, nên có nơi còn tình trạng khoán trắng cho Hội Phụ nữ. Nhà nước chậm cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị của Đảng thành chính sách về phụ nữ, chưa đầu tư thỏa đáng cho công tác phụ nữ, xử lý một số vấn đề do Hội Phụ nữ đề nghị chưa kịp thời, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế và chính đáng của phụ nữ. Chưa có chính sách đối với phụ nữ nông thôn, nông nghiệp.

Việc đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói chung và phong trào phụ nữ nói riêng đang đặt ra những yêu cầu bức thiết, đòi hỏi tiếp tục đổi mới chủ trương phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Nổi bật mấy vấn đề sau:

Thứ nhất, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động phụ nữ cả về tư tưởng và tổ chức. Đổi mới trong cách lãnh đạo, ra nghị quyết, giao nhiệm vụ cho đoàn thể, xác định rõ trách nhiệm của Đảng đối với công tác vận động quần chúng, không khoán trắng cho cấp ủy viên phụ trách. Cần xác định rõ hướng đổi mới chung của công tác vận động phụ nữ trong giai đoạn hiện nay tương ứng với sự biến đổi của các đối tượng phụ nữ và sự phát triển của các thành phần kinh tế. Đảng viên nữ ở cơ sở phải tham gia sinh hoạt Hội Phụ nữ để làm nòng cốt cho phong trào. Đẩy mạnh việc giáo dục chính trị tư tưởng, gắn với nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho các cấp ủy đảng, cho phụ nữ và phát huy vai trò của Hội Phụ nữ, có quy hoạch và chính sách về công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ Hội. Quan tâm phát triển đảng viên nữ để tăng nguồn cán bộ cho Đảng, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh.

Thứ hai, để phát huy vai trò, nhiệm vụ của các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó có Hội phụ nữ, các tổ chức đảng, cấp ủy các cấp cần xây dựng cơ chế làm việc, vai trò giám sát các hoạt động của các tổ chức trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng từ trung ương đến cơ sở.

Thứ ba, tiếp tục phát huy vai trò của Ban Dân vận các cấp trong công tác chỉ đạo, tham mưu về công tác vận động quần chúng nói chung, công tác phụ nữ nói riêng ngang tầm với nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của các đoàn thể.

Thứ tư, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về công tác phụ nữ; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, tạo điều kiện thuận lợi để bồi dưỡng và phát huy tiềm năng của phụ nữ. Nhà nước sớm có chính sách đặc thù đối với phụ nữ (đặc biệt là phụ nữ nông thôn), về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, tạo việc làm;về chăm sóc sức khỏe, chính sách bồi dưỡng tài năng nữ. Các chính sách này cần được thể hiện trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong kế hoạch dài hạn và kế hoạch hằng năm của các cấp bộ đảng.

Thứ năm, Hội các cấp tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy dân chủ và trí tuệ tập thể, mở rộng tính liên hiệp, đoàn kết thống nhất với phương châm: nơi nào có phụ nữ, nơi đó có tổ chức Hội. Chú ý việc tổ chức, phát triển cơ sở hội ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng sâu, vùng dân tộc miền núi, nhằm phát huy tính sáng tạo của các tầng lớp phụ nữ đóng góp cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm thực tiễn, nắm bắt kịp thời yêu cầu nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, phụ nữ.

 
Trương Thị Khuê
Phó Bí thư Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Thường trực Hội LHPN Việt Nam

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video