Các nhà máy chế biến cần gắn kết với vùng nguyên liệu

07/01/2006
Sau hơn 10 năm, tỉnh Thanh Hoá đã quy hoạch được 7 vùng sản xuất nguyên liệu tập trung, gồm: cao su, cà phê, 3 vùng mía đường, 2 vùng sắn gắn liền với 7 nhà máy chế biến được bố trí ở 17 huyện với tổng diện tích qui hoạch 52.800 ha.

Trong qui hoạch diện tích trồng cây cao su, với 11.167 ha ở 58 xã thuộc 6 huyện: Ngọc Lặc, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Như Xuân, Như Thanh, Thọ Xuân và 14 nông - lâm trường. Đến nay vùng nguyên liệu cao su đã trồng được 7.422,7 ha, đạt hơn 70% diện tích qui hoạch và đã có 2.500 ha đang cho thu hoạch; năng suất bình quân đạt 0,8 tấn mủ khô/ha, sản lượng đạt 2 ngàn tấn sản phẩm khô.

 

Vùng mía đường được qui hoạch ở vùng nguyên liệu  Lam Sơn 11.000 ha, vùng Thạch Thành 11.000 ha và vùng Nông Cống 6.000 ha. Thực tế đến nay ở vùng mía đường Lam Sơn đã trồng được 16.171 ha, đạt 147% diện tích qui hoạch. Hàng năm sản lượng đạt gần 1 triệu tấn mía nguyên liệu đủ cho 2 nhà máy chạy hết công suất 6.000 tấn mía/ngày.  Vùng mía đường Thạch Thành đã trồng được 9.516 ha, đạt 86,5% diện tích qui hoạch; sản lượng mía nguyên liệu hàng năm đạt từ  450 đến 460 ngàn tấn mía, mới đủ cho nhà máy hoạt động được 60% công suất thiết kế. Vùng mía đường Nông Cống trồng được 5.378 ha (năm nay xuống còn 4.200 ha) đạt hơn 200 ngàn tấn mía nguyên liệu, đủ cho nhà máy hoạt động  hết công suất 1.500 tấn mía/ngày.

 

Vùng nguyên liệu sắn phục vụ cho 2 nhà máy chế biến tinh bột sắn xuất khẩu ở huyện Bá Thước và Như Xuân, trồng được 7.000 ha, nhưng thực tế 2 nhà máy chỉ ký hợp đồng sản xuất và thu mua nguyên liệu với nông dân được 5.500 ha, sản lượng sắn củ ước đạt 100 ngàn tấn đủ cho nhà máy chế biến đạt từ 40 đến 60% công suất thiết kế.

 

Như vậy, trong 7 vùng sản xuất nguyên liệu gắn liền với 7 nhà máy chế biến, đến nay mới chỉ có 2 nhà máy của Công ty cổ phần  mía Đường Lam Sơn và 1 nhà máy của  Công ty Đường Nông Cống là đủ nguyên liệu, nhà máy hoạt động hết công suất, còn lại 4 nhà máy (mía đường Thạch Thành, dứa Như Thanh, 2 nhà máy sắn) nguyên liệu mới chỉ đáp ứng được từ 40 đến 60% công suất, dẫn đến cả nhà máy và người nông dân đều không có lãi hoặc lãi thấp. Mặc dù vậy, việc hình thành vùng nguyên liệu của các nhà máy chế biến đã làm thay đổi căn bản  bộ mặt giao  thông, đặc biệt là giao thông các địa phương miền núi, tạo điều kiện cho lưu thông nông sản, hàng hóa. Hàng vạn hộ nông dân tham gia trồng cây nguyên liệu đã xóa được đói, giảm được nghèo, và hàng nghìn hộ thực sự đã giàu lên từ trồng cây nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. Từ đó đã tạo cho hàng ngàn lao động có việc làm, hệ thống dịch vụ được phát triển. Cái được lớn hơn là đã chuyển biến tư tưởng  và cách nghĩ cùa người nông dân  từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa.

 

Hiện tại còn một số nhà máy và một bộ phận nông dân trồng cây nguyên liệu chưa thoát được khó khăn. Sự chồng chéo, bất cập của các vùng nguyên liệu ở tỉnh ta là nhiều huyện, nhiều xã trên cùng một diện tích có từ 3 đến 5 loại cây trồng, làm cho sản xuất manh mún, trong khi trình độ dân trí còn thấp, trình độ thâm canh hạn chế, vốn liếng đưa vào sản xuất không nhiều, nên năng suất cây trồng  thấp, người sản xuất không có lãi; đồng thời với năng suất thấp là không đủ sản lượng để các nhà máy hoạt động hết công suất. Từ thực trạng quy hoạch ấy đã gây không ít khó khăn cho công tác tư tưởng, chỉ đạo, đầu tư cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, chuyển giao kỹ thuật của các nhà máy và các cấp chính quyền cơ sở.

 

Để có đủ nguyên liệu bảo đảm cho các nhà máy chế biến  nông sản hoạt động hết công suất, trong thời gian tới tỉnh ta cần thực hiện một số giải pháp đồng bộ như: điều chỉnh lại quy hoạch và quản lý quy hoạch một cách chặt chẽ hơn. Ở mỗi huyện chỉ chọn 1 đến 2 cây trồng chủ lực tham gia dự án; tích cực chuyển đổi ruộng đất tập trung thành vùng nguyên liệu gần nhà máy. Chính sách đầu tư và giá thu mua nguyên liệu của các nhà máy cần có sự điều chỉnh linh hoạt phù hợp để nông dân có lợi. Mặt khác, ở những vùng khó khăn, tỉnh cần có chính sách hỗ trợ thỏa đáng trong việc gắn kết giữa người sản xuất nguyên liệu với các nhà máy chế biến.

Thành Long

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video