Cần thay đổi cách tiếp cận, tăng quyền cho phụ nữ

11/08/2019
Đây là những nội dung được nhiều đại biểu đề cập đến trong phiên kỹ thuật thứ 3 của Hội thảo chính sách “Thách thức và giải pháp để phụ nữ DTTS không bị bỏ lại phía sau”.

Cần thay đổi cách tiếp cận, tăng quyền cho phụ nữ

Theo bà Nguyễn Thị Thanh Hòa - Chủ tịch Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam: Về mặt nguyên tắc thì quy định quyền tham gia của phụ nữ DTTS trong Hiến pháp là đúng. Nhưng thí dụ trong Luật trẻ em, nếu không nghe trẻ em nói thì không thể tăng sự tham gia của trẻ em nên chúng ta có thể tham khảo cách này để quy định quyền tham gia của phụ nữ DTTS.

Một vấn đề mà bà Thanh Hòa nhấn mạnh là cần thay đổi cách tiếp cận, thay vì tiếp cận bắt đầu từ phụ nữ cần tiếp cận từ những bé gái - đó là giai đoạn vàng để có những phụ nữ tự tin, bản lĩnh trong tương lai.

Bà Reáchbha FitzGerald - Phó Ban Phát triển, Đại sứ quán Ireland, cho rằng, hội thảo là cơ hội để nhìn lại vấn đề của phụ nữ DTTS. Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong thu hẹp khoảng cách giới, giáo dục, giảm tỉ lệ tử vong của phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, thị trường lao động còn bất bình đẳng, mất cân bằng giới tính khi tỉ lệ sinh con trai cao… “Tôi từng gặp một phụ nữ DTTS tại Thanh Hóa, chị cũng như các chị em đã tự tin hơn, tự thực hiện các sáng kiến, các nghiên cứu ở địa bàn sinh sống. Mong ngày càng có nhiều phụ nữ DTTS như vậy để lan tỏa hình mẫu tại cộng đồng”- bà Reáchbha FitzGerald bày tỏ- “Hội thảo này đặc biệt quan trọng bởi thúc đẩy lồng ghép giới và hợp tác của các tổ chức cùng chia sẻ kinh nghiệm tăng quyền cho phụ nữ. Từ những bài học thực tiễn để đưa ra khuyến nghị chính sách cho tất cả các phụ nữ.”

TS. Phạm Thái Hưng, chuyên gia độc lập, cho hay, từ khóa phổ biến nhất được nhắc đến trong các chương trình giảm nghèo bền vững là “ưu tiên”. Nếu tiếp cận dựa trên quyền thì quá tốt nhưng khoảng cách còn tương đối xa. TS Hưng cũng ví von: Dù là “mèo đen hay mèo trắng” thì vẫn cần “chuột”, ý nói rất cần có cơ chế và phải được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu cụ thể, cũng như hướng dẫn chi tiết để thực hiện.

 Ảnh minh họa

Đại biểu sau phiên họp thứ 3 diễn ra vào sáng 9/8/2019


Cũng như nhiều đại biểu có mặt, bà Đào Thị Bình, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục với phụ nữ DTTS. “Có nhiều mô hình giáo dục thường xuyên nhưng vẫn xa với những gì mà phụ nữ DTTS cần. Tôi nghĩ đến việc cần giáo dục kỹ năng sống cho phụ nữ DTTS. Không phải điều gì xa vời mà là giúp cho họ ngay từ nhận thức về mục tiêu cuộc sống, về mơ ước… Thực tế, phụ nữ DTTS có nhiều thế mạnh như họ nhanh nhẹn, tươi vui, có sức khỏe, năng lượng sống tốt. Chỉ cần người đi trước truyền cho họ cảm hứng, giúp họ có mục tiêu trong cuộc sống thì sẽ có nhiều thay đổi trong cộng đồng”.

Chính sách liên quan tới bình đẳng giới thực hiện ở vùng DTTS chỉ chiếm khoảng 3,4%

Theo TS. Nguyễn Thị Mai Hoa, Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội: Từ khi đổi mới (1986) đến nay, với 118 văn bản chính sách hiện còn hiệu lực, cho thấy Nhà nước ta đã ban hành không ít chính sách hỗ trợ phát triển vùng DTTS. Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ được ban hành còn tản mát, quy định rải rác ở nhiều văn bản với các cấp độ khác nhau.

Về chính sách dân tộc, Quốc hội và Chính phủ ban hành nhiều Luật, Chương trình, đề án, chính sách cho vùng DTTS. Theo số liệu thống kê của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, tính từ đầu thời kỳ đổi mới đến tháng 7/2019, Quốc hội đã ban hành và sửa đổi, bổ sung khoảng 80 Luật với 193 điều có các nội dung liên quan đề cập tới lĩnh vực DTTS.

 Ảnh minh họa

Ảnh minh họa


Đến thời điểm này, nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất quy định về các chính sách đối với vùng DTTS. Các văn bản còn lại dưới dạng thông tư hoặc quyết định phê duyệt các chương trình, đề án, mang tính quản lý, điều hành việc thực hiện đầu tư, hỗ trợ cụ thể, chủ yếu giải quyết những vấn đề trước mắt, cấp bách. Nhiều chính sách còn mang tính ngắn hạn, thiếu tính chiến lược; có chính sách manh mún, dàn trải, chồng chéo về nội dung, trùng lặp về địa bàn và đối tượng thụ hưởng. Trong khi đó việc phân bổ nguồn lực để triển khai lại tùy thuộc vào điều kiện thực tế của từng ngành, từng địa phương, trong từng giai đoạn nên hiệu quả thấp.

Theo Báo cáo của Chính phủ về việc đánh giá 3 năm thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS (giai đoạn 2016-2018), tính đến cuối 2018, hiện có 118 chương trình, chính sách đang có hiệu lực triển khai thực hiện ở vùng DTTS, trong đó có 54 chính sách trực tiếp (chiếm 45,8%) cho đồng bào DTTS và 64 chính sách chung (chiếm 54,2%) có ưu tiên cho đồng bào DTTS. Trong giai đoạn 2016 - 2018, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 41 chương trình, chính sách, trong đó có 15 chính sách (chiếm 36,6%) trực tiếp cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng DTTS và 26 chính sách chung (chiếm 63,4%) có ưu tiên cho đồng bào DTTS. Bên cạnh đó, có 21 chương trình mục tiêu có nội dung gián tiếp tác động đến vùng DTTS. Có 40 tỉnh, thành phố ban hành chính sách riêng của địa phương để hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của đồng bào DTTS.

Mặt khác, trong số 118 chương trình, chính sách đang có hiệu lực triển khai thực hiện ở vùng DTTS, chỉ có 4 chính sách liên quan tới BĐG (chiếm khoảng 3,4%), gồm 2 chính sách trực tiếp cho phụ nữ DTTS. Kết quả này cho thấy còn nhiều bất cập trong chính sách thúc đẩy BĐG vùng DTTS. Cụ thể là, hệ thống chính sách liên quan tới bình đẳng giới và chính sách đối với đồng bào DTTS hầu như chưa được xây dựng theo quan điểm lồng ghép yếu tố giới và đặc thù DTTS; dẫn tới tình trạng chính sách BĐG thì không tính đến đặc thù cho đối tượng là phụ nữ DTTS, còn chính sách cho vùng DTTS lại không tính đến yếu tố giới. Vì vậy, phụ nữ DTTS dường như vẫn nằm ở điểm khuất của góc khuất, ít cơ hội tiếp cận chính sách nói chung, ngoài 2 chính sách trực tiếp là Quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người DTTS khi sinh con đúng chính sách dân số và Đề án Hỗ trợ hoạt động BĐG vùng DTTS. Và ngay cả khi thực hiện các mục tiêu BĐG, nếu không có giải pháp phù hợp, phụ nữ DTTS cũng có thể gặp khó trong việc tiếp cận các chính sách.

Tuy nhiên, còn có bất cập liên quan tới khâu tổ chức thực hiện chính sách. Theo đánh giá của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, 118 chính sách đang có hiệu lực hiện nay do 10 Bộ, ngành quản lý, chủ trì chỉ đạo, cùng với đó là những quy định về cơ chế, nguồn lực khác nhau gây nên khó khăn trong tổ chức thực hiện và theo dõi, tổng hợp. Trong công tác quản lý nhà nước, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành trong triển khai, hướng dẫn thực hiện; việc thực hiện chính sách còn gặp phải những vướng mắc do phân bổ nguồn lực thiếu, dẫn tới tình trạng chính sách khó đi vào thực tế, hiệu quả thấp.

Như vậy, trên thực tế, cùng với vấn đề gia tăng bất bình đẳng trong phát triển giữa các dân tộc, tình trạng bất bình đẳng giới vùng DTTS vẫn còn khá nặng nề. Nữ DTTS ít khả năng tiếp cận những công việc làm công hưởng lương, được pháp luật lao động bảo vệ. Thực trạng trên cho thấy cần đẩy mạnh hơn nữa các chính sách hỗ trợ cho phụ nữ DTTS mới có thể thúc đẩy được tiến trình thực hiện các mục tiêu BĐG cũng như các mục tiêu Thiên niên kỷ mà Việt Nam đã ký kết.

PNVN

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video