Nguồn gốc của Áo dài Việt Nam: Các cuộc cách tân áo dài 5 thân

19/07/2020
Trong cuộc cải cách áo dài 5 thân của phụ nữ ở thập niên 1930, các họa sỹ tham dự vào việc cải tiến như Lê Phổ, Lê Thị Lựu, Cát Tường… vẫn giữ hình dạng của áo dài 5 thân, chỉ đổi mới bằng cách làm cho áo tương đối ôm thân thể hơn, và bằng cách bỏ việc nối sống giữa.
Áo dài tứ thân khoác vạt sang bên phải đầu thế kỷ 20 (ảnh tư liệu)

Vì lúc đó có những loại vải nhập từ Âu châu được dệt với khổ rộng hơn, không cần nối vải nữa. Ngoài ra cái vạt thứ năm (tức vạt hò) bên trong cũng được bỏ đi một nửa bên dưới. Áo dài như vậy trở thành 3 thân, nhưng vẫn gọi là 5 thân hay năm tà. Cho đến thời điểm đó áo dài Việt Nam vẫn chưa có chít li ở eo.

Trong số các nhà cách tân áo dài phụ nữ thời thập niên 1930, họa sỹ Cát Tường, tức Lemur do tên Tường của ông dịch ra tiếng Pháp rồi biến thể đi một chút, đã cố gắng cách tân cái áo dài năm thân truyền thống một cách táo bạo hơn cả. Ông đả phá nguyên tắc che cổ bịt tóc ngàn xưa của người Việt trong việc cải biên của ông.

Hãy đọc một đoạn văn do chính họa sỹ Cát Tường viết trên báo Phong Hóa số ra ngày 23 tháng 2 năm 1934, về ý tưởng của ông trong việc cách tân cái áo dài 5 thân truyền thống: "Các bạn thử để ý xem, cái áo hiện thời của các bạn có cái gì bất tiện và thừa không? Muốn để các bạn khỏi tốn thì giờ vô ích, tôi xin thưa: Chính cái cổ là cái thừa, và hai ống tay bất tiện. Cúc cổ chẳng bao giờ cài thì cái cổ để làm gì? Tôi xin hỏi? Để che cổ ư? Thì nó nhỏ síu thế kia, che thế nào là đủ, vả lại áo các phụ nữ nước lạnh bên Âu, Mỹ còn chẳng cần cổ, nữa là xứ ta khí hậu rất nóng. Còn hai ống tay thì… thì các bạn cứ thử co tay lại vuốt mái tóc mà xem. Có phải nó chật quá không?… nó khó chịu và bất tiện lắm không?

Một vài mẫu áo dài Lemur (báo Phong Hóa)

Một vài chi tiết trong thiết kế mẫu áo dài Lemur (báo Phong Hóa)

Áo dài của ông Cát Tường rất Âu hóa. Áo có cổ cắt đa dạng, có khi khoét trái tim có khi có cổ lọ, hoặc có khi cổ hở được may vải nhún. Vai áo thường may bồng. Tay áo có khi cắt ngắn hay loe rộng. Quần thường có ống loe. Các loại áo dài phụ nữ cách tân ở thế kỷ 21 này rất nhiều khi chỉ là sự lập lại của những gì họa sỹ Cát Tường đã làm cách đây gần 90 năm. Với cái nhân sinh quan nệ cổ "răng đen, tóc xẻ ngôi giữa, vấn khăn" của đại đa số phụ nữ Việt lúc đó, áo dài Lemur chỉ được một bộ phận nhỏ phụ nữ rất cấp tiến đón nhận. Và áo dài Lemur gần như hoàn toàn biến mất sau khi họa sỹ Cát Tường biệt tích năm 1949. Hầu như không có một cái áo dài Lemur nào còn sót lại đến ngày nay…

Đến năm 1961 cái áo dài phụ nữ Việt lại có thêm một sự cải cách khá quan trọng. Đấy là việc một nhà thiết kế thời trang nữ người Mỹ gốc Nhật đang công tác ở Sài Gòn lúc bấy giờ, bà Michiko Uyemura đã tạo ra một thiết kế mới cho trang phục áo dài nữ Việt Nam. Bà đã lấy cái cổ cắt ngang và cái tay cắt hơi ngắn mà người phương Tây gọi là three-quarters tức là 3/4 (mà người mình gọi là "troa ca", tức Trois-quatres theo tiếng Pháp), được biết đến nhiều ở phương Tây lúc ấy qua trang phục Ấn Độ-Pakistan, cho cái áo dài mới của bà...

Trái: Đồng phục salwar kameez của tiếp viên hàng không quốc gia Pakistan giai đoạn 1956-1960 với tay cắt 3/4 và khăn choàng dupatta (ảnh Pakistan International Airlines). Phải: Áo dài năm 1961 của nhà thiết kế Uyemura với cổ thuyền, tay cắt 3/4; và vạt áo dài hơn, theo phong cách áo dài Việt Nam lúc bấy giờ (ảnh UPI)

Từ khoảng năm 1962-1963 áo dài nữ dạng phổ thông ở Sài Gòn đã bắt đầu có xếp li để tạo eo. Và eo áo dần được bóp nhỏ đến hết mức có thể. Người ta hoặc mặc coóc xê (corset) bó bụng trong áo, hoặc dùng giây dải rút bằng sợi gai thít chặt bụng (mà dây chun và khuy cài không làm được), để đạt được cái eo ong lý tưởng đó. Cổ áo dài lưng ong cắt cao, độn nylon, và tà áo cắt rất dài.

Áo dài thắt lưng ong ở Sài Gòn đầu thập niên 1960. Trái: thắt eo bằng dải rút. Phải: Thắt eo bằng corset (ảnh Life Magazine)

Áo kameez kurti phái nữ đúng mode nhất của Pakistan hiện nay lại trông nhang nhác giống áo dài mini, đúng hơn là midi, của Việt Nam ở những năm 1967-1971.  Giữa phong trào Hippy toàn cầu, áo dài nữ Việt Nam lúc đó được cắt ngắn bớt đi. Thân áo may nới ra ở eo, và nếp chít li bó eo có khi cũng được bỏ đi cho thoải mái, hợp thời. Vai áo dài mini được nối theo cách raglan để ôm vai mềm mại hơn, mà lại tiết kiệm vải. Vạt hò bên trong bị bỏ đi và áo dài từ đấy thành 2 thân, tuy vẫn giữ hình dạng của áo dài 5 thân.

Quần của áo dài mini Việt Nam cắt rất rộng, giống cái quần palazzo salwar được phụ nữ Pakistan và Ấn Độ ưa thích lâu nay. Đến nỗi bà Thanh Khánh, một nhà thiết kế vải áo dài nổi tiếng ở Sài Gòn lúc bấy giờ, đã than rằng "giống quần của người Hồi Quốc quá (Hồi Quốc là cách người mình gọi Pakistan lúc đó). Nhưng nếu may quần hẹp lại thì thành cứng, mà có khi lại giống họ hơn". Có khác chăng là cách cắt vai áo raglan và hàng khuy cài áo về một bên sườn của áo dài mini của Việt Nam lúc ấy. Và trong khi cái quần rộng của áo dài mini Việt thường được cắt rất dài, luôn che dấu đôi giầy hay dép platform đế cao bên dưới, thì quần salwar không bao giờ dài hơn mắt cá chân. Vì phụ nữ vùng Ấn Độ-Pakistan hay đi giày dép thấp gót hơn.

Trái: Áo dài Mini có vạt cắt rất ngắn thời cao điểm, với dép Platform (ảnh Vinhmnghiem) Phải: Áo dài mini thời cuối (ảnh Vianaccessories)

Áo dài kurti dạng thời trang và quần palazzo của phụ nữ Ấn Độ-Pakistan trông nhang nhác giống áo dài mini Việt Nam

Một vài mẫu áo kurti hiện đại trẻ trung của thiếu nữ Ấn Độ và Pakistan, mặc với các quần palazzo và paijama 

Các mẫu áo dài Ấn Hồi được nêu ra trong bài viết này vì các nhà chuyên môn về áo dài sẽ thấy sự tương quan của chúng với nhiều dạng áo dài Việt, cả 5 tà truyền thống lẫn cách tân. Nếu nhìn thoáng qua các phụ nữ Ấn Độ hay Pakistan mặc salwar kameez, người ta có thể tưởng nhầm là họ mặc áo dài Việt Nam

Cái cổ đứng đầu tiên ở Ấn Độ được cho là từ thời Hoàng đế Jahangir (1605-1627) của triều đại Hồi giáo Mughal (1526-1857). Lúc đó áo dài 5 thân của nước ta ở Thuận Quảng đã phổ biến sâu rộng rồi, cho nên cái cổ đứng của áo dài Việt chắc không lấy ảnh hưởng từ Ấn Độ.

Áo có cổ đứng xuất hiện ở Trung Quốc sớm hơn. Theo dõi tranh truyền thần của các hoàng hậu triều Minh, thì từ vị đầu tiên là Mã Hoàng hậu (1368-1382) vợ vua Hồng Võ, đến đời thứ 4 là Hồ Hoàng hậu (1425-1428) vợ vua Tuyên Đức, các hoàng hậu đều mặc áo lót ngắn hẹp tay với cổ trực lĩnh khoác chéo vạt bên trong áo bào (trực lĩnh đoản sam). Từ Hoàng hậu thứ 5 tức Hiếu Trang Hoàng hậu (1442-1449), vợ vua Anh Tông, cho đến hết triều Minh (1644), các hoàng hậu đều mặc áo lót trực lĩnh ngắn có cổ đứng (thụ lĩnh đoản sam).

Nhưng trong cả triều Minh cho đến gần hết triều Thanh, người Trung Quốc không có áo dài với cổ đứng. Các áo trường bào của cả nam lẫn nữ đời Thanh về gần cuối trào cũng có cổ đứng, nhưng là cổ giả gắn vào áo. Triều Thanh của người Mãn Châu luôn cấm việc lưu truyền Hán phục. Mãi đến cuối triều Thanh, ở cuối thế kỷ 19-đầu thế kỷ 20, các áo dài trường sam, trường bào và kỳ bào bên Trung Quốc mới có cổ đứng.

Trong khi đó cái cổ đứng đã có vị thế tuyệt đối trong áo dài của Việt Nam từ nhiều thế kỷ. Có khi chỉ nhờ cái cổ đứng mà người ta phân biệt được áo của người Việt và áo của người Hoa. Ví dụ như cũng là áo bào 'Mã quái' (áo mặc để cưỡi ngựa) cắt y hệt nhau ở cùng một thời, nhưng áo mã quái Việt Nam có cổ đứng (thụ lĩnh), trong khi áo mã quái Trung Hoa có cổ tròn (bàn lĩnh).

Trái: Áo mã quái của một chúa Trịnh cuối thế kỷ 18 với cổ đứng. Phải: Áo mã quái của một vua nhà Thanh cuối thế kỷ 18 với cổ tròn (ảnh tư liệu)

Từ thượng cổ cho đến nhà Tùy (581-617) người Trung Hoa và các dân tộc lân cận đều chưa biết dùng khuy cài áo. Đời Đường mới bắt đầu có nút áo thắt bằng dây hay vải, nhưng chỉ dành riêng cho binh phục. Đến thời Minh thì nút áo, lúc đầu vẫn là nút thắt, bắt đầu được thông dụng. Có thể người mình bắt đầu học cách dùng nút áo từ thời điểm này. Đến thời Thanh bên Trung Quốc mới có khuy tết con bướm.

Dựa theo Phủ biên tạp lục, năm 1427, tức là một năm trước khi hoàn toàn đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi, Bình Định Vương Lê Lợi đã cho chuyển tù binh và hàng binh người Minh vào Thuận Hóa. Trước đó cũng đã có nhiều người Hoa sinh sống ở đấy rồi. Chắc người dân Việt ở địa phương này đã phần nào chịu ảnh hưởng cách ăn mặc của họ, như trong việc dùng nút cài áo và dùng cái cổ đứng, mà mình gọi là cổ xây.

Nhưng nút áo dài truyền thống của mình là loại nút tròn bằng kim loại hay ngọc, ngà, san hô, thủy tinh... chứ không là loại cài móc hay loại nút tết con bướm thông dụng bên Trung Hoa, mà mình gọi là khuy Tầu. Và cái cổ xây của Việt Nam cắt hẹp bản hơn và ôm cổ hơn cổ đứng thụ lĩnh bên Trung Quốc.

Phong tục dấu tóc (vấn tóc) và che cổ là từ nền văn hóa và tín ngưỡng Ấn Độ, không phải của Trung Hoa. Hình dạng và tính cách của áo dài năm tà Việt Nam cũng gần với áo kameez của xứ nóng hơn là các loại trang phục phương Bắc. Ví dụ như các áo dài tay hẹp ở phương Bắc đều có tính cách của trang phục xứ lạnh, với tay áo cắt rộng dài hơn, cổ áo cao hơn, và vạt áo cũng cắt dài hơn trang phục của xứ nóng. Trong khi áo dài ngũ thân của Việt Nam có tay bó hơn và vạt ngắn hơn, theo kiểu các áo dài kameez Ấn Hồi. Chất liệu vải áo dài Việt cũng thường mềm và mỏng hơn…

Như vậy áo dài 5 thân ở Thuận Hóa, với ảnh hưởng rõ nét từ Ấn Độ như thế, phải được hình thành khi ảnh hưởng của nền văn minh Ấn-Hồi, được thể hiện trên nền văn hóa Champa, hãy còn sâu rộng ở đây. Rồi sau đó nó được đưa đi khắp nơi trong nước bởi nhà Tây Sơn. Và nhất là sau khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước năm 1802. Theo sách 'Ô châu cận lục' của Dương Văn An ấn hành năm 1555, thì thuở ấy ở Thuận Hóa vẫn còn các làng thôn ăn mặc theo lối của người Chăm; mặc dù vua Lê Thánh Tông đã chính thức đặt ra thừa tuyên Thuận Hóa và cho di dân Việt vào khẩn hoang, sinh sống ở đấy từ năm 1466.

Có lẽ đâu đó giữa thế kỷ 15 và 16, áo kameez của vùng văn minh Ấn Độ, qua người Chăm, được kết hợp với cách cài khuy áo bên sườn phải và cái cổ đứng theo kiểu của người Việt, để thành cái áo dài 5 thân Việt Nam ở Thuận Hóa. Đến khoảng cuối thế kỷ 16 hay đầu thế kỷ 17 áo dài ngũ thân đã phổ biến sâu rộng ở địa phương này, đến nỗi Đào Duy Từ có thể khuyên chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho phụ nữ xứ Đàng Trong mặc áo năm thân cài khuy cho khác biệt với cách mặc áo áo tứ thân thắt vạt khoe yếm của phụ nữ ngoài Bắc.

Trái: Áo dài 5 thân mai cài thọ của một chúa Trịnh cuối thế kỷ 18. Phải: Áo dài 5 thân thiên thọ của một hoàng thái hậu triều Nguyễn cuối thế kỷ 19 (ảnh tư liệu)

Và áo dài 2 thân của nữ giới, vẫn trong hình dạng của áo 5 tà, đã tiếp nối di sản áo dài truyền thống của người Việt từ thế kỷ 16 cho đến nay. Riêng áo dài năm thân phái nam thì gần như không thay đổi gì suốt trong nhiều thế kỷ. Trừ ra một vài mẫu cách tân vui nhộn trong mấy năm gần đây dành cho giới trẻ. Còn từ thế kỷ 18 đến nay áo dài 5 thân vẫn được đàn ông Việt Nam trang trọng khoác vào khi tiếp khách ở mọi cấp bậc.

Áo dài truyền thống trải qua 5 thế kỷ đã in sâu một cách thân thương cũng như thiêng liêng vào tâm hồn người Việt. Dù nó có thể có gốc gác từ đôi nguồn ngoại nhập nhưng người Việt đã sáng tạo ra những nét độc đáo riêng trên cái áo này để ngày nay nó có một chỗ đứng đặc biệt trong thế giới thời trang quốc tế, ngang với Kimono của Nhật Bản và Salwar Kameez của của các nước Ấn-Hồi. Và để giờ đây đến bộ từ điển bách khoa nổi tiếng toàn cầu Encyclopedia Britanica cũng phải có phần viết riêng về áo dài Việt Nam.

PNVN

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video