Phát huy giá trị của những phẩm chất đạo đức truyền thống để xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ Việt Nam hiện nay

07/08/2011
Những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam đã được giữ gìn phát huy qua nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn phát triển của đất nước. Ngày nay cần phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, của người phụ nữ kết hợp với những tiêu chí đạo đức của thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đât nước để hình thành nên đạo đức người phụ nữ mới, hiện đại.

Gs. Lê Thi

I. Cơ sở nền tảng đã vun đắp cho sự hình thành và phát triển các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung, các phẩm chất đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam nói riêng.

Bàn về giá trị những phẩm chất đạo đức truyền thống để xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ hiện nay không thể không nhắc đến những nhân tố đã quy định nên sự hình thành của các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta nói chung, của phụ nữ Việt Nam nói riêng. Đó là hoàn cảnh xã hội Việt Nam với những điều kiện kinh tế và xã hội, văn hóa và tư tưởng đặc thù, qua 4000 năm phát triển của lịch sử dân tộc.

Thứ nhất, đó là cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc, giữ gìn bờ cõi quê hương của nhân dân Việt Nam.

Thứ hai là đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước ở nước ta, được tổ chức theo phương thức sản xuất châu Á, với sự phát triển của kinh tế hộ gia đình, sản xuất nhỏ là chủ yếu, với vai trò và địa vị đặc biệt của phụ nữ trong kinh tế hộ gia đình. Ở nông thôn, nhân dân làm kinh tế tiểu nông, mỗi nhà sở hữu vài sào ruộng đến vài mẫu ruộng.

Thứ ba là ảnh hưởng của các tôn giáo lớn đối với nhân dân ta: Nho, Phật, Lão, việc thờ phụng tổ tiên, các phong tục tập quán lâu đời trong vấn đề hôn nhân và gia đình, việc giáo dục đạo đức cho người phụ nữ, với nội dung quán triệt thuyết tam tòngtứ đức.

II. Truyền thống đạo đức dân tộc và các phẩm chất đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam.

1. Giá trị của đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam là những điểm gì đáng nêu lên ?

- Đó là tinh thần yêu nước, đoàn kết chiến đấu chống quân xâm lược, quyết tâm hy sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập tự do của đất nước và sự phồn vinh của dân tộc Việt Nam.

- Tính cần cù lao động, chịu thương chịu khó trong sản xuất, và ý thức trách nhiệm đối với công việc được giao phó.

- Việc coi trọng vai trò của gia đình, và thờ phụng tổ tiên, đề cao lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, ông bà, cũng như mối quan hệ đi lại gần gũi, tương trợ lẫn nhau trong anh em họ hàng, dòng họ, coi trọng các ngày giỗ Tết của đại gia đình.

- Tinh thần đoàn kết xóm làng với cộng đồng dân cư nơi gia đình sinh sống.

2. Vậy ảnh hưởng của đạo đức truyền thống dân tộc đối với sự hình thành và củng cố những phẩm chất đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam như thế nào ?

a/ Trước hết phải nói đến tinh thần yêu nước, quyết tâm hy sinh vì nền độc lập dân tộc của phụ nữ Việt Nam.

Lịch sử nước ta đã có nhiều tấm gương sáng đáng nêu lên: Những năm đầu Công nguyên đã xuất hiện các nữ tướng như Hai Bà Trưng. Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị đã khởi nghiệp những năm 40, 43 ở đất Mê Linh (huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên hiện nay), đánh tan quân nhà Hán, giành lại độc lập cho đất nước. Nợ nước thù nhà của các chủ tướng Mê Linh đã được trả.Hai bà được dân cả nước tôn vinh làm vua, đóng đô ở Mê Linh. Trải qua hàng chục đời, nay đất nước của vua Hùng mới được khôi phục.

Triều đại của Hai Bà Trưng tuy chỉ ngắn ngủi có 3 năm những đã chứng tỏ tinh thần yêu nước mạnh mẽ của phụ nữ Việt Nam và mở đầu cho nền độc lập nước nhà.

Cuộc khởi nghĩa của Triệu Trinh Nương năm 248, người nữ anh hùng dân tộc hồi đầu thế kỉ III, khởi nghĩa chống quân Ngô. Bà là người có sức khỏe, gan dạ, mưu trí. Năm 18 tuổi, bà cùng ông anh tập hợp nghĩa quân, lập căn cứ ở Phú Điền (Hậu Lộc – Thanh Hóa hiện nay) và đã có lời tuyên bố dõng dạc: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không thèm cúi đầu, còng lưng làm tỳ thiếp người ta”.

Trong thời đại hiện nay cũng không thiếu những nữ tướng tham gia chiến đấu chống ngoại xâm như bà Nguyễn Thị Minh Khai, một lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống chế độ thực dân Pháp và đã hy sinh oanh liệt.

Bà Nguyễn Thị Định đã tham gia lãnh đạo Mặt trận giải phóng miền Nam, chiến đấu chống đế quốc Mĩ và bọn bù nhìn tay sai Ngô Đình Diệm.

b/ Phụ nữ Việt Nam đã cố gắng giỏi việc nước, đảm việc nhà để chồng con yên tâm đi chiến đấu chống kẻ thù xâm lược suốt 30 năm chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ của nhân dân Việt Nam.

Những nữ dân quân, nữ du kích đã dũng cảm chiến đấu gìn giữ xóm làng khi quân thù tràn đến quê hương, cướp bóc tàn phá xóm làng của họ.

Những nữ thanh niên tham gia các đội thanh niên xung phong đi phục vụ ở các chiến trường: tải đạn, vận chuyển lương thực, thuốc men, săn sóc thương bệnh binh và trực tiếp chiến đấu để ngăn chặn bước tiến của kẻ địch khi cần thiết ở chiến trường nơi họ làm việc trong chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ.

c/ Với đức tính lao động cần cù chịu khó, chăm chỉ, chị em thường đảm nhiệm việc gieo mạ, cấy lúa, nhổ cỏ, gặt hái, phơi phóng, bảo quản thóc lúa v..v.. trong sản xuất nông nghiệp.

Ở Việt Nam, vợ chồng cùng làm ruộng gắn với làng quê như câu ca dao:

“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cầy vợ cấy, con trâu đi bừa”.

Trong chiến tranh, nhiều nơi nam giới đi chiến đấu vắng nhà, phụ nữ phải trực tiếp làm công việc nặng nhọc như cày bừa ruộng đất.

Phụ nữ lo việc chăn nuôi: chăm sóc lợn gà, trâu bò của gia đình, trồng rau cỏ cây quả ở mảnh vườn nhà để có thêm thu hoạch cho gia đình, đồng thời đảm bảo bữa ăn cho con cái.

Phụ nữ làm dịch vụ buôn bán, kinh doanh nhỏ ở các chợ tại địa phương từ ngày xưa.

d/ Phụ nữ hy sinh lợi ích cá nhân vì hạnh phúc của gia đình, con cái.

Phụ nữ Việt Nam đảm đang việc nhà, họ có vai trò quan trọng trong việc tổ chức đời sống gia đình, đảm bảo cuộc sống no ấm cho chồng con, ông bà già.

- Họ là người chủ yếu đảm nhận việc nội trợ gia đình (nam giới lo sản xuất kiếm tiền). Chị em tay hòm chìa khóa, cố thu xếp để gia đình đủ ăn, đề phòng những lúc khó khăn đói kém, mất mùa v..v.. Chính vì vậy, người vợ, người mẹ có địa vị trong gia đình, như câu ca dao đã đề cao vai trò phụ nữ:

“Nhất mẹ nhì cha, thứ ba bà ngoại”.

- Phụ nữ vừa lo sản xuất vừa lo nuôi dạy con cái. Đứa trẻ từ lúc nhỏ đến tuổi vị thành niên thường chịu ảnh hưởng của người mẹ rất nhiều.

- Mẹ dạy con tinh thần yêu nước, lòng biết ơn những người đã đóng góp cho Tổ quốc:

“Uống nước phải nhớ đến nguồn”.

“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

- Sống có tư cách đạo đức: “Chết trong hơn sống đục”, “Giấy rách phải giữ lấy lề”.

- Mẹ dạy con anh em một nhà phải giúp đỡ lẫn nhau:

“Anh em như thể chân tay”.

“Khôn ngoan đối đáp người ngoài,

Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”.

- Anh em biết đoàn kết lẫn nhau:

“Một cây làm chẳng nên non,

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.

- Quan tâm giúp đỡ bạn bè, người chung quanh khi họ gặp khó khăn:

“Lá lành đùm lá rách”.

- Biết quý trọng lao động:

“Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”.

- Biết cách ứng xử lễ phép trong gia đình ngoài xã hội:

“Gọi dạ bảo vâng”.

“Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”.

- Biết rút kinh nghiệm từ cuộc sống trong thực tế:

“Đi một ngày đàng học một sàng khôn”.

“Trăm nghe không bằng mắt thấy”.

Nhìn chung phụ nữ Việt Nam đã thể hiện được tấm lòng trung hậu và tài đảm đang trong cuộc sống gia đình. Vì vậy, ca dao tục ngữ đã ca tụng công lao của cha mẹ và con cái cần báo hiếu:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Mới là đạo hiếu, mới tròn đạo con”.

e/ Phụ nữ Việt Nam biết đoàn kết xóm làng: láng giềng sớm tối có nhau, giúp đỡ lẫn nhau, thể hiện lòng nhân hậu, “thương người như thể thương thân”, “một miếng khi đói bằng gói khi no”.

Phụ nữ Việt Nam rất xứng đáng với lời ca ngợi của Đảng và Nhà nước của nhân dân ta: “Phụ nữ Việt Nam anh hùng bất khuất, trung hậu đảm đang.

3. Thuyết “Tam tòng, từ đức” được đề cao coi như mô hình đạo đức lý tưởng mà người phụ nữ phải học tập và làm theo trong thời kì phong kiến trước đây.

Khổng Tử trước đây đã nêu ra thuyết: “Tam cương ngũ thường”, “Tam tòng, tứ đức” để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh của xã hội phong kiến. Thuyết này đã được truyền bá từ Trung Quốc sang Việt Nam trong những thời kì nhà Hán, nhà Đường, nhà Thanh v..v.. đô hộ nước ta và có ảnh hưởng chủ yếu đến tầng lớp quan lại, gia đình quyền quý Việt Nam.

a/ “Tam cương ngũ thường” là đạo đức của nam giới phải tuân theo.

“Tam cương”: “tam” là 3, “cương” là giường mối, tức 3 trật tự của xã hội phong kiến: Quân thần cương là mối quan hệ giữa vua và thần dân trong triều. Phụ tử cương là bổn phận của cha và con. Cha có bổn phận nuôi dạy con, con phải có hiếu với cha mẹ. Phu phụ cương là bổn phận giữa vợ và chồng.

“Ngũ thường”: “ngũ” là 5, “thường” là hằng có. “Ngũ thường” là 5 điều thường có khi sống ở đời. Đó là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Nhân là phải có lòng thương người.

Nghĩa là phải có đạo nghĩa.

Lễ là đối xử phải có lễ phép với nhau.

Trí là con người phải có trí tuệ.

Tín là con phải sống thành thật để mọi người tin mình.

b/ Tam tòng, tứ đức là đạo đức của người phụ nữ.

“Tam tòng” gồm 3 nội dung người phụ nữ phải thực hiện trong suốt cuộc đời của họ từ khi nhỏ đến lúc về già: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.

“Tứ đức” là 4 đức tính: công, dung, ngôn, hạnh mà người phụ nữ phải học tập, rèn luyện bản thân.

Theo quan niệm truyền thống, “tứ đức” vừa là cái đích phụ nữ phải hướng tới, vừa là thước đo, tiêu chí để khẳng định giá trị của người phụ nữ.

c/ Nội dung thuyết “tam tòng” thể hiện rõ cách đối xử bất bình đẳng đối với phụ nữ trong gia đình, họ phải phục tùng người đàn ông với tư cách là người cha, người chồng, người con trai.

Tại gia tòng phụ nghĩa là khi còn sống ở nhà từ bé đến lúc trưởng thành, người con gái có hiếu phải nghe theo lời người cha dạy, đặc biệt trong việc sắp đặt hôn nhân gia đình của họ. Đáng lý ra, người con phải vâng lời cả người cha và người mẹ mà không riêng gì chỉ của người cha. Điều gì cha mẹ nói đúng, hợp lẽ phải thì con phải chấp hành nghiêm túc. Nhưng nếu có điều trái với đạo lý hay chưa chính xác, người con có quyền trình bày lại ý kiến, cha mẹ cần lắng nghe con. Đây không thể là sự áp đặt một chiều, lấy quyền lực của cha mẹ bắt con chấp hành, đặc biệt trong những vấn đề hệ trọng như việc làm, sự nghiệp, hôn nhân gia đình của con gái.

Xuất giá tòng phu nghĩa là người đàn bà khi lấy chồng phải nghe theo chồng, chấp hành ý kiến chồng chỉ đạo, không được cãi lại. Đó là sự bất bình đẳng lớn giữa vợ và chồng.

Người chồng làm điều sai, người vợ có quyền và nghĩa vụ ngăn cản hành động xấu xa của chồng, không thể vâng lời vô điều kiện. Đó mới là tư cách đúng đắn của người vợ.

Trước đây, người phụ nữ chỉ được lấy một chồng, nam giới có quyền lấy nhiều vợ và đã xảy ra bao nhiêu chuyện rắc rối, đau khổ trong quan hệ giữa vợ cả, vợ lẽ, nàng hầu, từ thái độ đối xử không công bằng của người chồng.

Quan niệm “xuất giá tòng phu” thể hiện rõ quyền lực của người đàn ông đối với người đàn bà, của người chồng đối với vợ, yêu cầu người phụ nữ phải vâng lời, tuân theo sự áp bức bất công của người chồng trong suốt cuộc đời họ từ khi lập gia đình, với bao nhiêu bi kịch, nỗi oan ức họ phải chịu đựng.

Phu tử tòng tử: chồng chết, người mẹ phải nghe theo con trai. Đây cũng thể hiện một quan điểm bất bình đẳng đối với phụ nữ, suốt đời họ không ngóc đầu lên được, dù chồng đã chết, con cái đã trưởng thành.

Khi người chồng chết thì tuyệt đại đa số phụ nữ góa ở vậy, nuôi con, không tái hôn lại. Khi con đã trưởng thành, họ thường ở với con cả hay con út. Họ tiếp tục giúp đỡ con cái nhiều việc trong gia đình mà không ngồi chơi không. Họ có những kinh nghiệm sống có thể truyền đạt cho con cái để xử lý những khó khăn xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Họ có thể ngăn cản con cái không làm điều xấu, mà không phải chỉ phục tùng sự chỉ đạo của con trai trong bất cứ việc gì.

Quan niệm về tam tòng đã tước quyền bình đẳng của người phụ nữ trong suốt cuộc đời họ từ lúc trẻ đến khi về già.

Thuyết “tam tòng” đã bó hẹp trách nhiệm người phụ nữ chỉ trong phạm vi gia đình, không nói đến sự tham gia của họ ngoài cộng đồng dân cư. Người phụ nữ lao động vất vả, không được học tập, phải làm việc nhiều, đặc biệt là làm nội trợ gia đình, nuôi con cái, phải phục tùng tuyệt đối sự chỉ đạo của người cha, người chồng, của người con trai đã trưởng thành khi người chồng chết.

Ngày nay, pháp luật đã bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ, xóa bỏ các quan niệm lạc hậu của thuyết “tam tòng”.

d/ Nội dung cụ thể của “tứ đức”: công, dung, ngôn, hạnh trước đây.

Công là công việc, nghĩa là biết làm việc, bao hàm cả tài năng khéo léo, trí tuệ thông minh, được rèn luyện thử thách.

Công nói lên sự khéo léo đảm đang của người phụ nữ trong việc chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái, tổ chức đời sống gia đình. Trước hết, người phụ nữ biết tề gia nội trợ, khéo léo sắp xếp công việc gia đình, nuôi dạy con cái. Họ phải giỏi nữ công gia chánh, nấu ăn ngon cho chồng con, biết làm cỗ khi nhà có giỗ, khi đãi khách v..v… Họ biết thêu thùa, vá may, nuôi tằm, dệt vải.

Như vậy với tư cách người vợ, người mẹ, phụ nữ phải giỏi giang công việc nội trợ gia đình, theo đúng chức năng nhiệm vụ của họ, tay hòm chìa khóa, quán xuyến chi tiêu của gia đình. Họ phải nhập gia tùy tục, có trách nhiệm trong việc bảo đảm nối dõi tông đường.

Ngày xưa, tài năng người phụ nữ thể hiện trước hết ở tài may vá, thêu thùa, bếp núc. Cũng có một số chị em buôn bán ở chợ hay làm hàng rong. Một số phụ nữ giỏi con nhà quyền quý thì có thêm tài: cầm, kì, thi, họa. Ở những dòng họ quý tộc, người vợ phải thay chồng quản lý nhân công, kẻ ăn người ở trong nhà, coi sóc ruộng nương, điền sản.

Dung là dung nhan, diện mạo, dáng dấp người phụ nữ thể hiện ra bên ngoài, với gương mặt, thân hình khả ái, dễ thương. Đó cũng là cái nết na thể hiện qua cách ứng xử, nói cười, làm ăn. Trang phục của người phụ nữ phải chỉnh tề, không lộ liễu, khêu gợi. Đầu tóc gọn gàng, trải gỡ hàng ngày.

Xưa kia người phụ nữ đạt tiêu chuẩn “dung” thì như liễu yếu đào tơ, đi lại nhẹ nhàng, e lệ, khép nép, không được mặt ủ mày chau, cau có, bẳn gắt. Dung mạo luôn tươi tắn, sáng sủa, kể cả lúc bị chồng mắng.

Suốt đời người phụ nữ phải chăm sóc đến dung nhan của mình, không ăn mặc cẩu thả, không để đầu bù tóc rối.

Dung là sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp hình thứcvẻ đẹp tâm hồn. Không có người phụ nữ xấu, chỉ có người phụ nữ không biết làm đẹp mình. Cái đẹp tâm hồn còn giá trị hơn nhiều lần cái đẹp hình thức bên ngoài.

Ngôn là lời ăn tiếng nói, ngôn từ giao tiếp khoan thai, dịu dàng, mềm mỏng, có duyên. Ca dao đã có câu:

“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,

Người khôn nói tiếng nhẹ nhàng dễ nghe”.

“Lời ngọt lọt vào tai”.

Đối với đàn bà con gái thì lời ăn tiếng nói phải ngọt ngào, dịu dàng, biết thưa gửi. Họ phải biết lúc nào nên nói, lúc nào không nên nói, điều gì nên nói, điều gì không nên nói hay chưa nên nói.

Trong công việc, người phụ nữ dễ thành công khi lời ăn tiếng nói khéo léo, lịch thiệp:

“Lời nói không mất tiền mua.

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

Người phụ nữ biết cân nhắc, không quá nặng lời lúc nóng giận, không ba hoa khi hứng chí, không nói đãi bôi, giả dối khi giao tiếp.

Lời nói biểu hiện tâm hồn con người. Người nhân đức tiếng nói trong sáng, ấm áp. Người cay nghiệt tiếng nói rin rít qua kẽ răng. Người đanh đá tiếng nói the thé. Người hay văng tục chứng tỏ ít được giáo dục. Người nói năng lễ độ, đúng mực chứng tỏ là con nhà gia giáo, được học tập, dạy dỗ từ bé.

Trong gia đình, nói năng với chồng con nhẹ nhàng, mềm mỏng, mới dễ thuyết phục họ. Khi ra ngoài đời, lời nói nhỏ nhẹ, dịu dàng, điềm đạm đem lại hiệu quả nhiều hơn là lời nói tùy tiện, oang oang, gắt gỏng.

Người phụ nữ không cười to, nói to, mà nói năng lễ độ đúng mực, đặc biệt là tỏ ra lễ phép, tôn kính khi nói với người lớn tuổi, người già.

Hạnh là hạnh kiểm, đức hạnh. Đó là đạo đức đoan trang, đứng đắn, nết na của người phụ nữ.

Trong gia đình, biết kính trên nhường dưới, chiều chồng thương con, ăn ở tốt với họ hàng nhà chồng.

Ra ngoài, đối xử với người mình giao tiếp một cách chín chắn, nhu mì, không hợm hĩnh, chua ngoa, đáo để.

Hạnh thể hiện những phẩm chất đạo đức cơ bản của người phụ nữ, trước hết là sự thủy chung với chồng, đức hy sinh với con cái, và giàu lòng nhân ái với mọi người xung quanh.

Người phụ nữ đức hạnh xưa kia luôn chịu thương chịu khó gánh vác công việc nhà chồng, thủy chung vô điều kiện và vĩnh viễn với chồng. Khi người chồng chết, người phụ nữ góa ở vậy nuôi con không kết hôn lại.

Do đó, mọi nguồn vui, sướng, khổ, thành bại từ cái đức của người phụ nữ quyết định. Xinh đẹp mà không có đức hạnh thì khó được người chồng, gia đình nhà chồng tôn trọng. Không xinh đẹp nhưng có đức hạnh thì cả gia đình nhà chồng đều quý mến.

Tóm lại “tứ đức”: công, dung, ngôn, hạnh, trước đây là nội dung được các gia đình giàu có, quyền quý dạy dỗ con cái, hoặc chọn con dâu theo tiêu chuẩn này, nhưng thực tế ít ai trọn vẹn cả “tứ đức”. “Tứ đức” là khuôn mẫu đạo đức mà người phụ nữ ngày xưa phải học tập, làm theo.

Theo quan niệm của số đông các tầng lớp bình dân thì yêu cầu số một là người phụ nữ phải khỏe mạnhđảm đang, cho nên chữ “công” được đặt lên hàng đầu. Người đàn ông lấy vợ không đơn thuần chỉ để nối dõi tông đường mà cần thêm một người đỡ đần công việc gia đình. Tiếp đó chữ “hạnh” đối với phụ nữ vô cùng quan trọng. Có người vợ đức hạnh là người chồng có chỗ dựa vững chắc, tin cậy để yên tâm làm ăn, tạo dựng sự nghiệp và trước hết có được một gia đình thuận hòa, yên ấm.

Chữ “ngôn” cũng không thể coi thường vì người xưa hay nhắc đến chuyện học ăn, học nói. Có thể căn cứ vào cách nói năng, cư xử của người phụ nữ đối với mọi người trong gia đình và ngoài xã hội để đánh giá phần nào về nhân cách của họ.

Đối với chữ “dung”, người bình dân không quá coi trọng nhưng cũng không xem nhẹ. Hình thức bề ngoài miễn sao khỏe mạnh, sáng sủa là được, họ không quá coi trọng hình thức:

“Đừng ham da trắng, tóc dài,

Tháng ba ngày tám cố mài mà ăn”.

Trong bốn phẩm chất nói trên, cái đáng quý nhất đối với phụ nữ bình dân vẫn là phẩm chất cần cù lao động, chịu thương chịu khó. Tất nhiên người phụ nữ có đủ công, dung, ngôn, hạnh vẫn là ước mơ của người chồng.

Tuy nhiên quan niệm “tứ đức” trước đây chỉ bó hẹp trách nhiệm của phụ nữ trong gia đình, không nói đến sự tham gia của họ ngoài cộng đồng dân cư. Người phụ nữ lao động chân tay vất vả, ít kiến thức, ít được học tập, ít tham gia công việc xã hội. Đó là những hạn chế lớn đối với chị em phụ nữ trước đây, đặc biệt trong việc phát huy trí tuệ thông minh, tài năng tháo vát toàn diện của họ đóng góp cho xã hội. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến địa vị, vai trò bình đẳng của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.

III. Phát huy những giá trị tốt đẹp của đạo đức truyền thống dân tộc để xây dựng đạo đức mới của phụ nữ Việt Nam hiện nay

1. Những nhân tố đang tác động đến cuộc sống của người dân Việt Nam trong thời đại mới, đòi hỏi việc đổi mới, hoàn thiện các giá trị đạo đức của người phụ nữ hiện nay.

a/ Việc toàn cầu hóa các hoạt động kinh tế chính trị, xã hội của các nước trên thế giới trong thế kỉ 21 này.

Hiện đang diễn ra việc quốc tế hóa toàn diện, nhanh chóng và sâu sắc các hoạt động xã hội đa dạng trong cộng đồng dân cư khắp năm châu, nhờ sự phát triển của các phương tiện thông tin hiện đại và phổ cập.

b/ Việc phát triển của nền kinh tế tri thức dựa trên những thành tựu khoa học – kĩ thuật mới, đã cho năng suất lao động cao, giảm nhẹ lao động chân tay nặng nhọc của con người.

Những khám phá, phát minh khoa học mới đã đem lại sự phát triển, sản xuất có hiệu quả ở nhiều ngành với chi phí sản xuất thấp, sử dụng ít lao động sống của con người.

c/ Lao động trí óc được tăng cường, lao động chân tay năng suất thấp, nặng nhọc ngày càng giảm bớt. Vì vậy đòi hỏi người lao động, người dân phải có kiến thức khoa học, có chuyên môn nghề nghiệp vững vàng, không ngừng được nâng cao và đi sâu mới đáp ứng yêu cầu của sản xuất hiện nay, cũng như các hoạt động chính trị, xã hội khác.

Lao động phải sáng tạo, luôn phát huy sáng kiến theo kịp sự biến đổi hàng ngày của yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước ở thế kỉ 21 này.

Đối với phụ nữ đã có sự mở rộng nhiều ngành nghề chuyên môn, chị em có thể tham gia và làm tốt. Phụ nữ các lứa tuổi lao động ở các ngành nghề ngày càng đông, càng đa dạng. Số chị em chỉ ở nhà làm nội trợ gia đình ngày càng ít ỏi. Người phụ nữ trong gia đình đang trở thành người phụ nữ ngoài xã hội.

d/ Trách nhiệm tổ chức đời sống gia đình của phụ nữ được chia sẻ: 2 vợ chồng cùng tham gia tổ chức đời sống gia đình, cùng lao động kiếm tiền nuôi con cái, cùng dạy dỗ con cái.

Sự phát triển các dịch vụ xã hội giá rẻ, thuận lợi, đáp ứng kịp thời yêu cầu của các gia đình trong việc cung cấp thức ăn, săn sóc trẻ em, người ốm, người già, giúp người phụ nữ đỡ vất vả tốn kém thời gian để làm nội trợ gia đình, chăm sóc các thành viên.

Việc kế hoạch hóa sinh đẻ do Nhà nước ta phát động và khuyến khích: mỗi gia đình chỉ nên có 2 con đã giảm bớt gánh nặng sinh đẻ, nuôi con nhỏ của người phụ nữ.

e/ Nguyên tắc hôn nhân 1 vợ 1 chồng đã được pháp luật nước ta quy định rõ ràng và đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ.

Ví dụ Luật Hôn nhân Gia đình được Quốc hội nước ta thông qua và ban hành tháng 6/2000.

Luật chống bạo lực trong gia đình được Quốc hội thông qua và ban hành ngày 20/11/2007.

Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006 và thực hiện từ 1/7/2007 đã quy định rõ:

- Sự bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình cùng các biện pháp bảo đảm BĐG.

- Trách nhiệm các cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới.

- Việc thanh tra, giám sát và xử lý các vụ vi phạm pháp luật về BĐG.

2. Xây dựng đạo đức mới của phụ nữ thời hiện đại trên cơ sở phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, những phẩm chất đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam.

Những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam đã được giữ gìn phát huy qua nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn phát triển của đất nước. Ngày nay cần phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, của người phụ nữ kết hợp với những tiêu chí đạo đức của thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đât nước để hình thành nên đạo đức người phụ nữ mới, hiện đại.

a/ Những phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc cần được phát huy để đáp ứng yêu cầu của thời đại mới:

Một là tinh thần yêu nước kết hợp với sự giao lưu hợp tác quốc tế rộng rãi, đa dạng, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng. Việc hợp tác giao lưu quốc tế này có lợi cho việc củng cố nền độc lập dân tộc của nước ta, tăng cường sức mạnh kinh tế xã hội của đất nước một cách toàn diện.

Chúng ta cần phát triển sự hợp tác đa phương, song phương với nhiều nước trên thế giới về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, kể cả với nước Mĩ và châu Âu.

Hai là phát huy đức tính cần cù, chịu khó của nhân dân ta, đòi hỏi phải có sức khỏe, kiến thức khoa học, kĩ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo. Vì vậy, người lao động cần không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, có kiến thức đa dạng phong phú để không ngừng sáng tạo cải tiến công việc, giảm bớt khâu lao động chân tay nặng nhọc năng suất thấp.

Ba là ý thức trách nhiệm đối với việc xây dựng tổ ấm gia đình. Vợ chồng bình đẳng trong gia đình, cùng chia sẻ việc nhà, nuôi dạy con cái, cùng đóng góp cho việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các thành viên.

Bốn là cần khắc phục tư tưởng ích kỉ cá nhân, chỉ lo làm giàu cho gia đình và bản thân. Cần có ý thức tham gia công việc cộng đồng, quan tâm đến lợi ích của mọi người, của xã hội. Đoàn kết với xóm làng, phố phường, tích cực tham gia công việc chung của cộng đồng dân cư, làm việc thiện, cứu giúp đồng bào gặp khó khăn, thiếu đói.

Đấu tranh chống lại nạn tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức quyền của một số kẻ chi lo làm giàu cho bản thân.

b/ Phụ nữ cần học tập các giá trị tốt đẹp của “tứ đức”: công, dung, ngôn, hạnh truyền thống với tinh thần đổi mới, phù hợp với thời đại hiện nay.

Nội dung của công, dung, ngôn, hạnh bao hàm những giá trị đạo đức quý báu của người phụ nữ ở mọi thời đại. Ngày nay người phụ nữ vẫn cần học tập những nét tốt đẹp của “tứ đức” để trau dồi tư cách của mình, đồng thời gạt bỏ những điểm lạc hậu, lỗi thời, mở rộng điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu thời đại ngày nay.

Chữ “công” không chỉ bó hẹp trong việc đảm việc nhà, tề gia nội trợ, giỏi may vá, thêu thùa, chăm sóc gia đình, con cái. Người phụ nữ ngày nay vừa giỏi việc nước lại đảm việc nhà.

Người phụ nữ có sự nghiệp riêng, có công ăn việc làm chuyên môn, đem lại cho họ thu nhập nhất định, không phụ thuộc, ỷ lại vào đồng lương của chồng. Nhiều phụ nữ đã tham gia nhiều ngành nghề khác nhau và đã có những vị trí công tác quan trọng: làm bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng xuất sắc, là những nhà ngoại giao tài giỏi, những tướng tá trong ngành quân đội, công an v..v… Họ đã góp phần giữ nước và xây dựng đất nước.

Do đó, người phụ nữ phải có sức khỏe, có kĩ năng nghề nghiệp, có kiến thức đa dạng để có thể lao động kiếm sống, làm giàu chính đáng, nâng cao giá trị bản thân, không thua kém nam giới trong hoạt động xã hội.

Chữ công ngày nay đòi hỏi người phụ nữ biết sắp xếp thời gian làm việc, sinh hoạt hàng ngày một cách khoa học để có thể cùng một lúc vừa đảm việc nhà, vừa lo chu toàn công việc chuyên môn, nghề nghiệp.

Chữ “dung” đề cập đến vẻ đẹp bề ngoài của người phụ nữ, cách ăn mặc, đi đứng. Vẻ đẹp đó ngày nay không phải là yểu điệu, liễu yếu đào tơ, mặt hoa da phấn, chim sa cá lặn. Người phụ nữ có mặt tươi tắn, sáng sủa, trang phục chỉnh tề, không lộ liễu, khêu gợi, tóc tai gọn gàng, quần áo sạch sẽ, chỉn chu. Đó là người phụ nữ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, năng động.

Dung cũng thể hiện ở dáng đứng, cách đi, cách ứng xử có văn hóa:

“Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”.

Ngày nay, nhiều chị em lại mong muốn có thân hình cân đối, khỏe mạnh, có vòng eo đẹp, bộ ngực, mông, đùi cân xứng. Đồng thời đã xuất hiện những xu hướng lệch lạc: có những cô thiếu nữ thích phô trương vẻ đẹp thân thể qua cách ăn mặc nhiều khi quá hở hang, lộ liễu thân hình, để mọi người ngắm nhìn. Họ luôn thay đổi mốt quần áo để thu hút sự chú ý của nam giới và bạn gái ca tụng, bắt chước v..v..

Đương nhiên người phụ nữ ngày nay có nhiều dịch vụ xã hội giúp họ làm đẹp như xoa bóp thân thể, chăm sóc bộ mặt v..v.. và đang trở thành một ngành thu hút khách hàng. Nhiều chị em đã chi phí tốn kém cho việc sửa sang sắc đẹp.

Chữ “ngôn” là lời nói, ngôn ngữ giao tiếp của phụ nữ, ngày nay không chỉ thể hiện cách nói năng lễ phép, lịch sự, tinh tế mà còn là sự giao tiếp khéo léo, dịu dàng mà mạnh mẽ, cách ứng xử thông minh, giỏi giang, thể hiện họ là người có hiểu biết và có văn hóa.

Ngày nay, người phụ nữ không nhất thiết lúc nào cũng phải e lệ, nói năng nhỏ nhẹ, miệng cười chúm chím mới gọi là đẹp. Lời nói của họ cần rõ ràng, mạch lạc, ngôn từ chuẩn mực, dễ nghe, truyền cảm và phù hợp với từng hoàn cảnh, đó là điều quan trọng. Một cô giáo không thể hùng hổ quát mắng học sinh khi chúng không làm bài hay nói chuyện trong lớp. Nhưng một nữ giám đốc đôi khi lại phải lên giọng nói cương quyết với nhân viên, nếu cứ nhỏ nhẹ chưa phải đã được việc.

Người phụ nữ cần thẳng thắn, dũng cảm trong phê bình và tự phê bình, đấu tranh chống lại sự bất bình đẳng trong gia đình, với hiện tượng thiếu dân chủ, mất công bằng ngoài xã hội, để bảo vệ quyền lợi của mình và của người khác.

Đáng tiếc là hiện nay có những cô gái trẻ lại hay ăn to, nói lớn, văng tục, chửi thề, hành động ngổ ngáo ở chỗ đông người như muốn thể hiện sự mạnh mẽ và độc lập tự do của họ trong cách ăn nói, đối đáp. Tuy nhiên sức mạnh của phụ nữ, cái khiến người ta yêu mến lại là cách ăn nói mềm mỏng, dễ nghe, từ tốn. Tục ngữ ta có câu: “Lạt mềm buộc chặt”.

Hạnh nói về đức hạnh người phụ nữ ngày nay, vẫn là sự nết na, chung thủy, lòng nhân hậu, cách xử sự đúng mực, có tình, có lý đối với chồng con, gia đình, bạn bè và cộng đồng dân cư.

Chữ “hạnh” ngày nay vừa thể hiện sự tận tâm đối với công việc chuyên môn người phụ nữ được giao phó, vừa nói lên tấm lòng chung thủy với chồng, sự hy sinh cho hạnh phúc gia đình, con cái, ý thức yêu quê hương, Tổ quốc, giỏi việc nước, đảm việc nhà.

Chữ “hạnh” bao gồm trong nó cả nội dung của công, dung, ngôn.

c/ Sự kết hợp giữa những phẩm chất đạo đức truyền thống với nền văn minh hiện đại tạo nên giá trị cao quý và vẻ đẹp đích thức của phụ nữ Việt Nam hiện nay.

Bản thân người phụ nữ phải có nghị lực, cố gắng vươn lên trong mọi hoàn cảnh, cần cù và sáng tạo, khắc phục khó khăn để phát huy những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, giúp họ trở thành những người con hiếu thảo, người vợ hiền hậu, chung thủy, người mẹ nhân từ, người công dân tốt, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

Đại hội Đại biểu Phụ nữ Toàn quốc lần thứ X nhiệm kì 2007 – 2012 đã đề ra mục tiêu phấn đấu của phụ nữ Việt Nam là: có sức khỏe, có tri thức, có kĩ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa và có lòng nhân hậu.

IV. Một số vấn đề cần lưu ý để xây dựng đạo đức mới của phụ nữ Việt Nam

Thứ nhất là cần xây dựng môi trường kinh tế xã hội và pháp luật cần thiết để tạo điều kiện phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam.

- Việc xây dựng môi trường kinh tế xã hội thuận lợi cho phụ nữ trong việc làm ăn sinh sống, mở rộng các ngành nghề, giúp đỡ họ được vay vốn với lãi suất thấp để mở rộng sản xuất, làm kinh tế hộ gia đình.

- Những luật pháp cơ bản như Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Chống bạo lực trong gia đình v..v.. cần được thực thi nghiêm chỉnh và có biện pháp nghiêm trị những vụ vi phạm pháp luật.

Thứ hai là coi trọng việc giáo dục và tự giáo dục của phụ nữ, để nâng cao trình độ hiểu biết của chị em. Họ biết tiếp thu những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, của người phụ nữ và ứng dụng vào thời đại mới.

Người phụ nữ cần khắc phục tư tưởng tự ti, an phận, nhút nhát, dám vươn lên hành động, đấu tranh vì lợi ích của bản thân và của gia đình, vì tương lai lâu dài của đất nước, của dân tộc Việt Nam.

Thứ ba là người phụ nữ cần đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực, tự do, ích kỉ, những hành động quá trớn của nam nữ thanh niên hiện nay, qua phong cách sống và đạo đức của họ.

Phụ nữ tham gia tích cực vào việc ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ trẻ em, nạn mại dâm đang phá hoại tương lai, cuộc sống của nhiều phụ nữ trên khắp miền đất nước hiện nay.

Vài lời kết luận

Người phụ nữ Việt Nam xinh đẹp, khỏe mạnh, chịu thương chịu khó, nết na, dịu dàng và mạnh mẽ, hồn nhiên tươi trẻ, lại hiểu biết giỏi giang luôn là những điều mà người bạn đời, người chồng luôn mong muốn chờ đợi ở người vợ, đồng thời lại có ý nghĩa xã hội sâu sắc, tạo nên giá trị đích thực của người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Họ là những người con hiếu thảo, người vợ đảm đang, người mẹ nhân hậu, người công dân yêu nước, xứng đáng với lời ca ngợi của chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta trẻ cũng như già ra sức thêu dệt mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video