Video

Cô giáo bền bỉ gắn bó với bục giảng vùng biên

20/11/2025
Cô giáo Bùi Thị Ái Mai đã gắn bó 32 năm với nghề giáo. Hơn nửa quãng thời gian đó, cô dạy ở điểm trường Tiểu học Tân Hiệp (xã Bình Thành, tỉnh Tây Ninh).
Cô Ái Mai bám trường, bám lớp để giữ con chữ cho học sinh vùng biên. Ảnh: Văn Hiền

Bám trường, bám lớp vì học trò thân yêu

Con đường trồng người ở điểm trường xa xôi luôn đi kèm thử thách cả chuyên môn, điều kiện khó khăn, áp lực từ gia đình và xã hội, nhất là đối với cô giáo công tác tại điểm trường vùng biên. Song, cô Bùi Thị Ái Mai là một trong những giáo viên hiếm hoi đã gắn bó với điểm trường Tiểu học Tân Hiệp (xã Bình Thành, tỉnh Tây Ninh) hơn 19 năm.

Năm 2006, khi chuyển từ điểm chính về đây, cô Ái Mai lập tức đối mặt với thực tế khắc nghiệt: không có đường bộ, đường đến trường chỉ trông vào ghe xuồng.

“Hồi đó làm gì có đường, chỉ một lối mòn chạy dọc qua 7-8 cây cầu. Thầy cô nhìn cũng biết đó đâu phải đường, mà là… cả một con kênh (con sông nhỏ). Vậy mà ngày nào muốn đến lớp cũng phải chèo xuồng vượt qua”, cô Ái Mai nhớ lại.

Có đoạn nước cạn, xuồng không thể đi tiếp, cô Mai phải lội bộ hàng cây số. Cũng có những ngày tự chèo xuồng men theo con kênh ngoằn ngoèo, tới đoạn không có cầu, cô đứng chờ thật lâu, mong gặp phụ huynh đi ngang để xin quá giang sang bờ bên kia.

Khi được hỏi vì sao vẫn gắn bó dù việc đi lại quá vất vả, cô Mai chỉ cười: “19 năm về đây công tác, tôi đã đứng trên bục giảng lớp ghép này 16 năm. Khó nhất là giữ cho các em không bỏ học, còn chuyện di chuyển thì cố gắng là vượt qua được”.

Dạy học lớp ghép là hình thức tổ chức dạy học mà một giáo viên trong cùng một thời gian, không gian có trách nhiệm dạy học cho học sinh ở 2 hay nhiều nhóm trình độ (lớp) khác nhau nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đặt ra.

Theo quy định, những địa bàn đặc biệt khó khăn có thể tổ chức lớp ghép nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh đi học. Mỗi lớp ghép không quá 15 học sinh và không quá 2 trình độ. Trường hợp đặc biệt có thể ghép 3 trình độ nhưng mỗi lớp không quá 10 học sinh.

Lớp ghép ở đây không phải là do thiếu lớp, thiếu giáo viên mà là do cái đặc thù giống như học sinh ở đó nó ít quá. Theo quy định, lớp đơn phải đủ từ 15 đến 20 em. Nhưng ở Tân Hiệp, dân cư thưa thớt, có khi học trò từ "5 xã học chung 1 lớp", cô Ái Mai tâm sự.

Là giáo viên lớp ghép, cô phải cùng lúc đứng lớp hai đến ba trình độ, đảm bảo học sinh đều nắm chắc kiến thức cơ bản về Toán và Tiếng Việt. Áp lực đè nặng khi khối lượng công việc buộc cô “nhân đôi” công sức.

“Tối nào tôi cũng thức tới 12 giờ để hoàn thành kế hoạch bài giảng cho 2 trình độ học sinh của lớp ghép. Nếu người khác chỉ cần 2 giờ thì tôi phải dành 4 giờ. Thức khuya là chuyện thường xuyên”, cô Mai chia sẻ.

“Nhớ lại quãng thời gian điểm trường có nguy cơ bị giải thể, cô nói đó là lúc sự bền bỉ và cố gắng của cả cô lẫn trò phải đối mặt với thử thách cam go nhất. Khi ấy, học sinh buộc phải chuyển về gây ra tình trạng bỏ học. Có khi năm học đó lớp Một chỉ có 4, 5 em, trường đành phải để các em nghỉ một năm ở lại nhà rồi chờ năm sau", cô Mai kể.

Khi đủ lớp, các em đã lớn hơn một tuổi, kéo theo chênh lệch trình độ. Không những vậy, do không mở được lớp Một thì năm sau cũng không thể có lớp Hai. Để không đứt quãng việc học của trẻ, thầy cô phải xoay xở với đủ kiểu lớp ghép: 1+2, 2+3, 1+3, 2+4, và nay là 3+5. Nhờ sự kiên trì và linh hoạt không ngừng, hàng trăm học sinh vùng biên Bình Thành vẫn được đến lớp đầy đủ.

Khoảnh khắc học trò yếu nhất lớp viết nét chữ đầu tiên quý hơn mọi phần thưởng- Ảnh 2.

Khoảnh khắc học trò yếu nhất lớp viết nét chữ đầu tiên quý hơn mọi phần thưởng- Ảnh 3.

Khoảnh khắc học trò yếu nhất lớp viết nét chữ đầu tiên quý hơn mọi phần thưởng- Ảnh 4.

Học sinh điểm trường Tiểu học Tân Hiệp (xã Bình Thành, tỉnh Tây Ninh) học ghép lớp. Ảnh: Văn Hiền

Đều đặn mỗi ngày, cô rời nhà từ lúc bình minh và tối mịt mới trở về. Không ít đồng nghiệp bỏ cuộc vì vất vả đường sá và áp lực công việc. “Nhiều thầy cô rời đi rồi không trở lại, vài người vì quá vất vả đành về quê”, cô Mai tâm sự.

Giữa bao khó khăn không quản gian khó, cô Mai chọn ở lại. Nhìn những lớp học lợp tranh, vách lá trước gió sau mưa và gương mặt trẻ thơ lem luốc, cô thấy bóng dáng tuổi thơ mình. Lúc đó, chữ “tâm” trong cô lên tiếng.

Cô hiểu rằng nếu rời đi, trẻ vùng biên sẽ mất người dẫn đường, mất cơ hội học hành và dễ sa vào nguy cơ bỏ học hay nghiện game. Vì vậy, cô quyết định bám trường, bám lớp để giữ con chữ cho các em.

Sự hy sinh lớn nhất của cô Mai chính là tình mẫu tử. Cô lập gia đình năm 2000 và khi cô được điều ra điểm trường lẻ, con trai cô vừa chuẩn bị vào lớp Một. “Lúc đó con sắp vào lớp Một, nhưng tôi đành gửi hết cho chồng...”, cô Ái Mai nghẹn ngào kể.

Công việc đòi hỏi giáo viên ở trường cả ngày, nhiều hôm không kịp về, cô đành gửi con học ở điểm trường chính gần nhà. "Chiều không về kịp, nhờ thầy cô đón giúp, cho con ăn cơm; bữa nào tranh thủ được, tôi đút ăn cho con vài miếng. Cậu bé ngày nào giờ đã trưởng thành, tốt nghiệp đại học và làm giáo viên được hai năm. Tôi chưa bao giờ đặt áp lực lên con. Nghề giáo viên cũng là con tự quyết định", cô Mai chia sẻ.

Bục giảng vùng biên dành cho người bền bỉ

Thiếu thốn đủ bề, cô Mai tự tìm cách bù đắp. Từ những chiếc thùng giấy, cô làm bộ đồ dùng học tập, dựng mô hình “khu vườn bí mật” cho bài giảng. Chính những vật liệu mộc mạc ấy lại giúp học trò hào hứng, và bộ đồ dùng tự chế của cô đoạt giải cao cấp trường, được chọn tham dự cấp huyện.

“Đó là niềm tự hào lớn nhất”, cô cười, vì đó là minh chứng cho sự bền bỉ và sáng tạo của giáo viên vùng khó.

Khi ngành giáo dục đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ và trí tuệ nhân tạo, cô trò đối mặt với những điều khó khăn khác. “Rất, rất khó… vì điểm trường không có tivi, không có máy chiếu, không có máy tính”, cô Mai suy tư.

Học sinh vì thế gần như xa rời công nghệ, học tin học chỉ lý thuyết mà không thực hành. Nhiều hôm, cô phải mang laptop và bàn phím riêng tới lớp để các em được chạm tay vào phím, gõ từng chữ cái.

“Bản thân giáo viên còn khó tiếp cận, nói gì đến học sinh”, cô Mai chia sẻ. Khoảng cách số khiến trẻ vùng biên càng thiệt thòi so với bạn bè thành thị.

Khoảnh khắc học trò yếu nhất lớp viết nét chữ đầu tiên quý hơn mọi phần thưởng- Ảnh 5.

“Người mẹ thứ hai” của hàng trăm đứa trẻ. Ảnh: Văn Hiền

Việc dạy và học ở lớp ghép khó khăn không chỉ ở việc “gieo” con chữ mà những thầy, cô ở lớp nhiều khi còn phải đảm nhận nhiều vai khác. Giáo viên không chỉ dạy chữ mà còn là chỗ dựa tinh thần, “người mẹ thứ hai”, vừa dạy học vừa vận động từng em trở lại lớp. “Bố mẹ không để tâm đến chuyện học của con, mọi chuyện đều giao phó cho giáo viên”, cô Mai nói.

Học sinh nơi đây phần lớn là con em gia đình lao động nghèo. Bố mẹ bận bịu, đi làm thuê, vào rừng hái tràm từ 4-5 giờ sáng, ít có thời gian quan tâm hay động viên con đến trường, cô Mai thấu hiểu cho hoàn cảnh các gia đình.

Với cô Ái Mai, khoảnh khắc học trò yếu nhất lớp viết được nét chữ đầu tiên quý hơn mọi phần thưởng - là kết quả sau những nỗ lực thầm lặng của người làm nghề.

Nhiều học sinh dù đã lên cấp hai, cấp ba vẫn trở về thăm cô dịp 20/11, mang theo bó hoa rừng hay món quà giản dị. “Chùm bông tươi tụi nhỏ hái ngoài vườn đem tặng cô… vậy là đủ”, cô kể đầy xúc động.

Điều khiến cô tự hào nhất là “gieo chữ” nơi vùng sâu. Hai học trò năm xưa nay đã tốt nghiệp và quay về đứng cùng bục giảng, trở thành đồng nghiệp của cô tại chính ngôi trường này.

Gửi đến thế hệ giáo viên trẻ chuẩn bị về vùng biên, cô nhắn nhủ: “Hãy nỗ lực hết mình và tin vào chính mình. Các bạn sẽ nhận lại những điều tốt đẹp nhất”. Cô Mai còn 2 năm nữa là nghỉ hưu. Điều cô mong mỏi nhất là học trò tiếp tục học tập, trở thành người có ích, góp phần xây dựng quê hương.

Báo PNVN

MÔ HÌNH HAY