Thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia trong bối cảnh sự phát triển của trí tuệ nhân tạo

24/05/2024
Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã và đang phát triển với tốc độ ngày một nhanh hơn, tác động ngày càng toàn diện và căn bản đến mọi ngóc ngách của đời sống chính trị - kinh tế - xã hội. Một trong những tác động căn bản và mang tính quy định của cuộc cách mạng kỹ thuật số, đó là sự phát triển của các công nghệ, theo cả chiều rộng và chiều sâu, tạo ra những chiều kích mới cho sự phát triển của thế giới.
Ông Lê Nguyễn Trường Giang, Viện trưởng Viện Chiến lược Chuyển đổi số

I. Bối cảnh mới đặt ra do sự phát triển của trí tuệ nhân tạo

Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã và đang phát triển với tốc độ ngày một nhanh hơn, tác động ngày càng toàn diện và căn bản đến mọi ngóc ngách của đời sống chính trị - kinh tế - xã hội. Một trong những tác động căn bản và mang tính quy định của cuộc cách mạng kỹ thuật số, đó là sự phát triển của các công nghệ, theo cả chiều rộng và chiều sâu, tạo ra những chiều kích mới cho sự phát triển của thế giới.

“Khái niệm “Trí tuệ nhân tạo” (AI) xuất hiện lần đầu tiên vào mùa hè năm 1956 khi được nhà khoa học máy tính người Mỹ John McCarthy đưa ra tại Hội nghị Dartmouth để mô tả ngành khoa học kỹ thuật tạo ra máy móc thông minh có thể bắt chước hành vi của con người” [1]. Tuy nhiên phải đến những năm đầu thế kỷ 21, trí tuệ nhân tạo mới có được những bước đột phá mạnh mẽ cũng như những phát triển sâu rộng cả về kỹ thuật, chức năng và ứng dụng trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21.

Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo ở đầu thế kỷ 21 được xác lập dựa trên bốn trụ cột chính, và cũng là nền tảng quan trọng cho việc chúng ta nhận thức về những nền tảng cho các điều kiện cần và đủ để thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia dựa trên và hướng đến phát huy hiệu quả trí tuệ nhân tạo:

- Sự phát triển của năng lực và các công nghệ tính toán;

- Sự phát triển của năng lực và công nghệ lưu trữ, phân phối dữ liệu;

- Sự phát triển của năng lực dữ liệu lớn;

- Sự phát triển của Internet và các năng lực thu thập và truyền dẫn dữ liệu.

“Theo hệ thống phân loại của Hiệp hội Máy tính Quốc tế ACM (Computing Analysis Scheme) có một khung phân tích rõ ràng phù hợp để tổng hợp và đại diện cho công nghệ đang thay đổi AI theo thời gian. Phân loại này đã được sử dụng trong hơn 50 năm và bản cập nhật cuối cùng vào năm 2012 đã bổ sung các công nghệ mới. Theo đó, công nghệ AI được chia thành 3 hướng chính:

- Kỹ thuật AI (AI Technique): là các mô hình tính toán và thống kê tiên tiến như học máy, logic mờ và hệ thống cơ sở tri thức cho phép tính toán, nhiệm vụ do con người thực hiện; Các kỹ thuật trí tuệ nhân tạo khác nhau được sử dụng để thực hiện các chức năng khác nhau.

- Ứng dụng chức năng của trí tuệ nhân tạo (AI functions application): chẳng hạn như thị giác máy tính (computer vision) có thể chứa một hoặc nhiều kỹ thuật trí tuệ khác nhau.

- Ứng dụng trí tuệ nhân tạo theo lĩnh vực (AI Application field ): là việc sử dụng các kỹ thuật hoặc ứng dụng trí tuệ nhân tạo chức năng trong các lĩnh vực, ngành nghề cụ thể như giao thông vận tải, nông nghiệp, khoa học đời sống, y tế ...” [2].

“Còn theo Mediastandard, AI được chia làm ba loại gồm trí thông minh nhân tạo hẹp (ANI), trí thông minh phổ biến nhân tạo (AGI) và trí tuệ siêu nhân tạo (ASI)” [2].

Có nhiều cách thức để tiếp cận vấn đề trí tuệ nhân tạo, trong bài viết này, tôi sẽ tiếp cận trí tuệ nhân tạo từ chiều kích (dimension) bản chất và ý nghĩa tác động của nó đến đường hướng phát triển tổng thể của một quốc gia, từ đó, giúp những người lãnh đạo nhận thức được các vấn đề mà trí tuệ nhân tạo đặt ra, hình dung được bối cảnh mà trí tuệ nhân tạo tạo ra, đồng thời từ đó xác lập những định hướng chủ trương, chính sách và đường hướng lãnh đạo cần có.

Tổng thống Nga Vladimir Putin đã nói vào tháng 9 năm 2017 rằng: “Trí thông minh nhân tạo là tương lai, không chỉ đối với Nga, mà còn đối với cả nhân loại. Bất cứ ai trở thành người lãnh đạo trong lĩnh vực này sẽ trở thành người thống trị thế giới” [3]. Cũng trong năm 2017, trước sự kiện AlphaGo chiến thắng kỳ thủ cờ vây Ke Jie, đã tạo nên “Thời khắc Sputnik” cho Trung Quốc. “Hai tháng sau khi Ke Jie nhận thua ván cuối trước AlphaGo, chính phủ trung ương Trung Quốc đã công bố một kế hoạch đầy tham vọng nhằm xây dựng các năng lực trí tuệ nhân tạo. Kế hoạch này kêu gọi tăng cường nguồn tài trợ, chính sách hỗ trợ, và sự điều phối nhịp nhàng trên toàn quốc vì sự phát triển của AI... Trung Quốc sẽ trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo toàn cầu về trí tuệ nhân tạo, dẫn đầu cả về các lĩnh vực lý thuyết, công nghệ, lẫn ứng dụng... Tới năm 2017, Trung Quốc đã rót những khoản đầu tư kỷ lục vào các công ty khởi nghiệp về trí tuệ nhân tạo và chiếm tới 48% tổng số tiền đầu tư mạo hiểm vào AI trên toàn cầu, lần đầu tiên vượt mặt Hoa Kỳ” [4].

“Các chính phủ thế giới rõ ràng coi AI là một công nghệ chiến lược, với hơn 25 nước đã công bố chiến lược AI cấp quốc gia trong những năm gần đây. Các chiến lược này bao gồm chính sách AI trong nghiên cứu khoa học, phát triển tài năng, giáo dục, ứng dụng và hợp tác trong khu vực kinh tế tư nhân và quốc doanh, đạo đức, tiêu chuẩn và quy định về quyền riêng tư dữ liệu, cơ sở hạ tầng dữ liệu và kỹ thuật số” [3].

Tại Việt Nam, ngày 26 tháng 01 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 127/QĐ-TTg, Ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030. Trong đó xác lập rất rõ ràng quan điểm chỉ đạo [5]:

“i) Trí tuệ nhân tạo (TTNT) là một lĩnh vực công nghệ nền tảng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, góp phần quan trọng tạo bước phát triển đột phá về năng lực sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế tăng trưởng bền vững.

ii) Kế thừa và phát huy những thành tựu mới nhất của nhân loại, nghiên cứu, phát triển và ứng dụng TTNT gắn với các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, phát triển khoa học và công nghệ; phát huy tiềm năng của doanh nghiệp, khai thác hiệu quả mọi nguồn lực; từng bước nhận chuyển giao, làm chủ, tiến tới sáng tạo công nghệ.

iii) Tập trung nguồn lực để tạo ra và phát triển các sản phẩm TTNT, dịch vụ TTNT quan trọng mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh; đầu tư có trọng điểm ứng dụng TTNT trong một số lĩnh vực liên quan tới quốc phòng an ninh, quản lý tài nguyên, môi trường và dịch vụ cho người dân; phát triển mạnh các doanh nghiệp ứng dụng TTNT, doanh nghiệp khởi nghiệp về TTNT”.

Điều này, cho thấy Đảng và Nhà nước đã có những nhận định hết sức kịp thời, rõ ràng để thúc đẩy một lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa và tầm chiến lược quốc gia trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ và tiến trình chuyển đổi số quốc gia đang ở giai đoạn thúc đẩy đột phá mạnh mẽ.

Như vậy, có thể thấy, bối cảnh mới do sự phát triển trí tuệ nhân tạo đặt ra với tiến trình chuyển đổi số ở Việt Nam có thể tóm gọn thành 6 yếu tố chính:

i) Điều quan trọng là cần phải tiến tới được làm chủ các công nghệ và nền tảng cho sự phát triển trí tuệ nhân tạo để đảm bảo tiến trình chuyển đổi số đạt được những thành tựu đột phá;

ii) Tư duy định hướng cho sự phát triển trí tuệ nhân tạo ở Việt Nam là tạo ra năng lực cạnh tranh ở cả tầm quốc gia, tổ chức/doanh nghiệp đảm bảo cho sự phát triển bền vững;

iii) Hoạt động phát triển trí tuệ nhân tạo phải đồng thời tiến hành được trong cả ba lĩnh vực trọng điểm: a) chuyển đổi nhận thức để lãnh đạo tiến trình phát triển trí tuệ nhân tạo đúng hướng và tập trung hiệu quả các nguồn lực; b) hướng tới năng lực tiếp cận và từng bước làm chủ các công nghệ căn bản, công nghệ lõi, công nghệ nền tảng cho sự phát triển của trí tuệ nhân tạo; c) gắn chặt tiến trình phát triển trí tuệ nhân tạo với thực tiễn và yêu cầu của thực tiễn;

iv) Mục tiêu quan trọng của việc phát triển trí tuệ nhân tạo là giúp thúc đẩy hiệu quả việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, nâng cao lực an ninh quốc phòng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp;

v) Trọng tâm của sự phát triển trí tuệ nhân tạo là tập trung nguồn lực hiệu quả đúng trọng tâm, lấy nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cả về dân sự và quân sự làm trọng điểm;

vi) Cần thiết phải triển khai hiệu quả chiến lược nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo để đảm bảo vị thế, tiềm lực và sự phát triển bền vững của quốc gia;

II. Những thách thức và yêu cầu thích ứng hiệu quả với bối cảnh mới

Những thách thức và yêu cầu thích ứng hiệu quả với bối cảnh mới có thể được tổng hợp thành 12 nội dung cụ thể như sau:

1. Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo hiện đang được thúc đẩy mạnh mẽ với sự tham gia ở cả ba cấp độ chính phủ; các tập đoàn/doanh nghiệp đa quốc gia lớn về công nghệ; các tổ chức/doanh nghiệp ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Điều này, khiến cho lượng dữ liệu, thông tin, tri thức về trí tuệ nhân tạo được gia tăng với tốc độ ngày càng nhanh, khối lượng ngày càng nhiều, độ phức tạp và chi tiết về kỹ thuật ngày càng gia tăng, dẫn đến việc tiếp nhận những tri thức, thông tin, dữ liệu về trí tuệ nhân tạo trở nên ngày càng khó khăn, ngay cả đối với những chuyên gia trong lĩnh vực này. Do vậy, ở cấp độ các nhà lãnh đạo, các nhà chiến lược, các nhà hoạch định chính sách, cần phải có một sự hiểu biết về trí tuệ nhân tạo một cách phù hợp nhất đối với yêu cầu của vị trí, của lĩnh vực, của điều kiện thực trạng tổ chức của mình, tránh rơi vào tình trạng sa lầy trong bể dữ liệu, thông tin, tri thức tràn ngập về trí tuệ nhân tạo. Chỉ có như vậy, mới có thể lãnh đạo, chỉ đạo và đưa ra những chủ trương, đường lối, chính sách, phù hợp và thực tiễn, khả thi.

2. Trí tuệ nhân tạo không phải là một công nghệ đơn giản, đơn lẻ, mà là một công nghệ phức tạp, đòi hỏi sự kết nối mạng lưới giữa nhiều yếu tố cấu thành và nhiều công nghệ liên quan. Do vậy, triển khai trí tuệ nhân tạo trong tổ chức không đơn giản, nó đòi hỏi những nguồn lực lớn cả về tài chính, nhân lực, tri thức và cả năng lực kết nối xã hội, làm chủ công nghệ... điều này đòi hỏi các nhà lãnh đạo cần phải có sự cân nhắc về những khả năng của tổ chức một cách cẩn trọng để chọn lựa những giải pháp phù hợp. Đặc biệt cần tránh phương cách áp dụng mang tính thời trang, phong trào để rồi tạo ra những gánh nặng cho tổ chức và sự thiếu hiệu quả đối với giải pháp được áp dụng và chọn lựa.

3. Việc phát triển trí tuệ nhân tạo tại mỗi tổ chức, mỗi ngành đều đòi hỏi sự phối hợp có tính hệ thống, đồng bộ và cộng hưởng hiệu quả giữa các bên liên quan để đảm bảo các điều kiện cần và đủ cho sự vận hành của một giải pháp, hệ thống hay các công nghệ trí tuệ nhân tạo. Do vậy, cần xác lập một cách cụ thể những năng lực kết nối giữa các bên liên quan để đảm bảo cho việc ứng dụng và phát triển trí tuệ nhân tạo tại tổ chức, ngành của mình có thể phát huy được hiệu lực, hiệu quả.

4. Chất lượng dữ liệu đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, không thể có các ứng dụng trí tuệ nhân tạo nào và hiệu quả nếu không có dữ liệu đúng - đủ - sạch - sống. Cần phải có nhận thức đầy đủ về dữ liệu, hiểu rõ những dữ liệu có được, có thể có được, cùng những vấn đề liên quan đến dữ liệu, tiến trình dữ liệu và khả năng xử lý dữ liệu, cũng như năng lực tiếp cận dữ liệu của tổ chức để chọn lựa các giải pháp trí tuệ nhân tạo cho phù hợp, cũng như đặt nền tảng phát triển trí tuệ nhân tạo phải bắt đầu và trước hết từ phát triển dữ liệu.

5. Thuật toán đóng vai trò tiên quyết và quyết định trong trí tuệ nhân tạo. Thuật toán chỉ có thể lập được bằng cách dựa trên các quy trình nghiệp vụ, việc thiết lập các quy trình nghiệp vụ, các quy trình mang tính thủ tục, do vậy, trở thành yếu tố quyết định chất lượng của các thuật toán cũng như tính khả thi của việc triển khai các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo cho tổ chức. Thiết lập các quy trình nghiệp vụ, các quy trình mang tính thủ tục chuẩn hóa, hệ thống hóa, đồng bộ hóa, và có thể cộng hưởng hiệu quả được với nhau, là những bước đi mang tính tiền đề quan trọng cho việc phát triển trí tuệ nhân tạo trong tổ chức.

6. Việc đánh giá, phân tích hiệu quả, các yêu cầu đầu vào, các hệ quả đầu ra của các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong tổ chức cũng là một vấn đề quan trọng trong việc thẩm định các quyết định liên quan đến đầu tư, công nghệ, giải pháp, ứng dụng, cũng như có những điều chỉnh phù hợp trong tiến trình triển khai các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Do vậy, ngay từ những giai đoạn đầu của việc phát triển trí tuệ nhân tạo trong tổ chức, việc thiết lập các khung khổ đánh giá, phân tích hiệu quả của việc triển khai và ứng dụng trí tuệ nhân tạo cần phải được thực hiện, trở thành một khung khổ cho việc thẩm định, nghiệm thu, đánh giá, yêu cầu hiệu chỉnh các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo được triển khai.

7. Phạm vi và khả năng ứng dụng của trí tuệ nhân tạo cũng rất rộng rãi, do cả sự phát triển của công nghệ và các ứng dụng trí tuệ nhân tạo, sự phổ cập của trí tuệ nhân tạo dưới nhiều hình thức, nhiều ứng dụng ngày càng cho phép tiếp cận, ứng dụng và triển khai trí tuệ nhân tạo hiệu quả hơn. Điều này cũng dễ dẫn đến việc phát triển trí tuệ nhân tạo bị dàn trải và làm giảm hiệu quả. Để phát huy được hiệu quả của việc triển khai trí tuệ nhân tạo trong tổ chức, cần xác lập ngay từ đầu trọng tâm mà các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo cần được hướng tới như một mục tiêu cuối cùng, cho phép tạo ra sự cộng hưởng hiệu quả, xác lập được sự đồng bộ về công nghệ, có những tiến trình triển khai một cách hệ thống và chuẩn hóa các nguồn lực đặc biệt là dữ liệu.

8. Để đảm bảo việc chọn lựa và phát triển trí tuệ nhân tạo được hiệu quả, tổ chức cần phải xác lập những điều kiện và điều kiện đủ mà các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đặt ra. Trên cơ sở đó xác lập những điều chỉnh cần thiết, những đầu tư bổ sung, những năng lực cần thiết lập, đào tạo và chuẩn bị. Việc đánh giá được tính sẵn sàng của tổ chức trong việc tiếp cận trí tuệ nhân tạo có một ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc giúp tổ chức chọn đúng hướng đi phát triển trí tuệ nhân tạo, chọn được những giải pháp và ứng dụng phù hợp và có những định hướng đầu tư đúng đắn.

9. Lợi ích đạt được từ việc phát triển trí tuệ nhân tạo và triển khai các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo cần phải được cụ thể hóa, tránh tình trạng chung chung, tránh những diễn giải mang tính xu thế, mà thiếu sự đánh giá cẩn trọng, cụ thể, thực tiễn về những gì có thể thực sự đạt được. Điều này vừa có ý nghĩa quan trọng đối với việc đánh giá các cân đối trong việc chi phí cho đầu tư và lợi ích thu lại sau đầu tư. Đồng thời cũng chỉ rõ các động lực của việc phát triển trí tuệ nhân tạo, từ đó thúc đẩy được sự nỗ lực tham gia vào một tiến trình sẽ thay đổi về căn bản rất nhiều hoạt động của tổ chức.

10. Việc phát triển trí tuệ nhân tạo trong một tổ chức đòi hỏi sự phối hợp một cách hệ thống, đồng bộ và cộng hưởng hiệu quả giữa cả các thành phần/bộ phận bên trong tổ chức và các bên liên quan bên ngoài tổ chức. Do vậy, để đảm bảo phát triển trí tuệ nhân tạo hiệu quả, tổ chức cần phải đi cùng với tiến trình truyền thông hiệu quả thông qua nhiều hình thức, đặc biệt là công tác đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, giải thích và hướng dẫn một cách cụ thể và hiệu quả các yêu cầu để triển khai các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đối với tổ chức.

11. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành gắn liền với việc phát triển trí tuệ nhân tạo, đi cùng với việc triển khai các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo cũng là một vấn đề cần đặc biệt quan tâm. Lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu tổ chức cần phải tránh tình trạng chỉ đạo mang tính “chỉ đạo”, mà cần phải thực sự biết rõ, nắm chắc, hiểu sâu về các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo được triển khai trong tổ chức, để từ đó lãnh đạo, quản lý và điều hành một cách hiệu quả tiến trình này. Trí tuệ nhân tạo không chỉ là một vấn đề công nghệ mà các yếu tố “phi công nghệ” đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình và phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo, người lãnh đạo do vậy, không nhất thiết phải hiểu sâu về công nghệ, mà cần phải hiểu ta có thể vận dụng công nghệ như thế nào.

12. Cuối cùng, trí tuệ nhân tạo, với dữ liệu là nguồn đầu vào, thuật toán đóng vai trò định hình các tiến trình trí tuệ nhân tạo, đòi hỏi những sự tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về chất lượng, chuẩn thức, tiến trình, thao tác, tác vụ... Việc xây dựng các thể chế đóng vai trò định hình các yêu cầu tuân thủ, do vậy, có một ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển trí tuệ nhân tạo trong tổ chức.

III. Thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia trong bối cảnh mới

Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo với những tiến bộ vượt bậc cả về kỹ thuật, công nghệ và ứng dụng trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra những cơ hội và thách thức rất lớn cho tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Một mặt, nó tạo động lực thúc đẩy cho tiến trình chuyển đổi số quốc tiến nhanh, tiến mạnh hơn nữa, nhờ những thuận lợi có được từ sự phát triển của công nghệ trí tuệ nhân tạo, các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đã góp phần quan trọng cho việc củng cố các thành tựu mà tiến trình chuyển đổi số đạt được, tạo ra những bước đột phá quan trọng. Nhưng ngược lại, nó cũng đặt tiến trình chuyển đổi số vào những thách thức lớn, đặc biệt trong việc hiệu chỉnh lại những hướng đi, bước đi, phải tiến thực sự tới những bước đi đột phá mang tính nền tảng, căn bản và đúng đắn hơn, giải quyết được thực sự những bài toán, những điểm nghẽn và những yêu cầu mà thực tiễn đặt ra và đòi hỏi.

Thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia trong bối cảnh mới mà sự phát triển trí tuệ nhân tạo đặt ra, do vậy có thể được định hình với 4 định hướng chủ đạo sau:

Thứ nhất, cần phải hiểu rõ việc phát triển trí tuệ nhân tạo không phải là giải pháp của tiến trình chuyển đổi số mà ngược lại tiến trình chuyển đổi số đặt nền tảng cho sự phát triển (và đồng thời ngược lại) của trí tuệ nhân tạo. Việc phát triển trí tuệ nhân tạo chính là tạo ra năng lực kết hợp hiệu quả người - máy (H2M) để có thể chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

“Đứng trước cuộc cách mạng này, điều thách thức lớn nhất với chúng ta sẽ không chỉ là việc phát triển các khoa học - kỹ thuật - công nghệ thuần “cơ học”, mà để giúp cho khoa học - kỹ thuật - công nghệ tạo nên những thành tựu đột phá, chúng ta cần những nhà tư tưởng, những chiến lược gia, những kiến trúc sư thiết kế và quy hoạch xã hội. Tính đột phá của khoa học - kỹ thuật - công nghệ thực sự không chỉ đến từ những đổi mới thuần túy mang tính phát triển tiệm tiến, mà nằm ở cái cách, nó thực sự có thể tác động một cách toàn diện đến cách thức tổ chức xã hội, thay đổi cấu trúc xã hội cùng các tiến trình của nó. Điều thúc đẩy sự tiến bộ của loài người chính là tầm nhìn tương lai của mình, nhưng ngược lại, đó lại là cái có thể kìm hãm sự tiến bộ. Tầm nhìn tương lai phụ thuộc vào cái cách mà ta tư duy. Do vậy, không đột phá được tư duy để mở rộng tầm nhìn tương lai, mọi nỗ lực khoa học - kỹ thuật - công nghệ sẽ bị lạc lối. Càng cố gắng áp dụng, sẽ càng thúc đẩy sự phụ thuộc, sự rối loạn và làm tiêu tốn những khoản đầu tư lãng phí” [9].

Thứ hai, việc phát triển trí tuệ nhân tạo không chỉ là vấn đề công nghệ, việc phát triển trí tuệ nhân tạo còn phải dựa vào những khung khổ thể chế, các quy trình, các quy định về dữ liệu, quyền riêng tư, các phương thức thu thập và sử dụng dữ liệu, những vấn đề về đạo đức, xã hội, những rủi ro và cả những thách thức liên ngành, xuyên ngành. Do vậy, để thúc đẩy sự phát triển trí tuệ nhân tạo, thông qua việc thúc đẩy các nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, còn cần phải phát triển môi trường cho sự phát triển của trí tuệ nhân tạo.

Việc phát triển trí tuệ nhân tạo cũng cần một “không gian” cho sự hình thành và phát triển, thiếu không gian này, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo có thể bị kìm hãm, hoặc bị định hướng phát triển lệch hướng. Cũng như đã phân tích ở trên, việc phát triển trí tuệ nhân tạo không chỉ thuần túy là các vấn đề công nghệ, mà còn là những tri thức mang tính nền tảng, những khung khổ thể chế, những hoạt động giáo dục và đào tạo, những yêu cầu về phát triển dữ liệu, tiếp cận và sử dụng dữ liệu. Không thể phát triển trí tuệ nhân tạo nếu thiếu những nhân tài và nền tảng khoa học căn bản trong các khoa học từ ngôn ngữ, tâm lý học, xã hội học, luật học, triết học... ngoài những khoa học về máy tính. Việc định hình nên những giới hạn của việc tiếp cận cá nhân về dữ liệu, về những sự giám sát, sự can thiệp, những quy định về đạo đức cũng có một ý nghĩa quan trọng. Thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số trong bối cảnh sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, do vậy, cũng chính là việc thúc đẩy và tạo tiền đề thông qua kiến tạo một môi trường phát triển toàn diện, có kiểm soát, có định hướng cho sự phát triển của trí tuệ nhân tạo đồng hành cùng sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Thứ ba, các công nghệ nền tảng, công nghệ lõi đóng góp quan trọng cho sự phát triển trí tuệ nhân tạo có một ý nghĩa quan trọng cho việc đảm bảo quyền làm chủ các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Do những hạn chế hiện nay của chúng ta trong việc làm chủ các công nghệ nền tảng, công nghệ lõi, nên việc phát triển trí tuệ nhân tạo cũng cần phải có những cân nhắc một cách cẩn trọng trong việc chọn lựa các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn.

Tính hai mặt của trí tuệ nhân tạo có một ý nghĩa tác động mang tính chiến lược đối với các tổ chức áp dụng các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Một mặt, chúng tạo ra các công cụ và phương tiện hỗ trợ tích cực và hiệu quả cho các tổ chức. Nhưng mặt khác chúng cũng tạo ra sự phụ thuộc của tổ chức khi áp dụng các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, đặc biệt trong việc kiểm soát dữ liệu, nguy cơ bị can thiệp, thao túng và thậm chí bị định chuẩn. Do vậy, việc thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số cũng đồng thời phải tạo nên các mạng lưới hỗ trợ cho các tổ chức áp dụng các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, đảm bảo khả năng kiểm soát hiệu quả các tác động tiêu cực mà trí tuệ nhân tạo có thể tác động đến tổ chức. Đồng thời thông qua mạng lưới này thúc đẩy các tổ chức, doanh nghiệp của Việt Nam tìm ra những cách thức để dần làm chủ các công nghệ nền tảng, công nghệ lõi thông qua đồng cộng tác, đồng phát triển, đồng chia sẻ và đồng tư duy.

Thứ tư, nguồn nhân lực và năng lực vận hành, phát triển các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo cũng đóng một vai trò quan trọng và quyết định đối với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo. Chúng ta cần hiểu rõ, trí tuệ nhân tạo là công cụ, phương tiện, dựa trên sự kết hợp hiệu quả giữa con người và máy móc (H2M) mà tạo nên những giá trị mới, phương thức mới, phương cách mới cho sự vận hành và phát triển của xã hội. Trí tuệ nhân tạo có thể thay thế con người trong một số phần việc, khâu đoạn nào đó, nhưng không có nghĩa là trí tuệ nhân tạo thay thế hoàn toàn con người. Bởi vì, một xã hội không có con người, không vì con người, không vị nhân sinh thì không còn là một xã hội nữa, và con người có những đặc thù riêng mà không một máy móc nào có thể thay thế được.

Sự thay thế của trí tuệ nhân tạo đóng góp một cách tích cực và quan trọng vào việc mở rộng những hữu hạn về khả năng vốn bị giới hạn bởi năng lực sinh lý, thể lý và những giới hạn về không gian, thời gian, mà con người vì thế bị hạn chế. Nhưng cần hiểu rõ rằng, giá trị mà trí tuệ nhân tạo đem lại không thể không bắt nguồn từ những di sản tri thức mà con người đã tạo ra, và cũng chính từ di sản ấy tiếp tục đồng hành cùng con người để tạo ra những di sản mới, chứ không phải là sự tách biệt khỏi con người, phi con người. Cũng chính trong bối cảnh ấy, những kỹ năng đơn giản, những năng lực vốn chỉ dựa trên sự chuyên cần, lặp lại... của con người trở thành một thứ “có thể bị thay thế”. Thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số, do vậy, cần đào tạo những năng lực mới (năng lực số) cho con người, tạo ra đội ngũ nhân lực có chất lượng mới phù hợp với những điều kiện mới, có khả năng làm chủ, vận hành và phát triển các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.

IV. Các đề xuất, giải pháp

Trên cơ sở phân tích và đánh giá các yếu tố liên quan đến sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, cho thấy việc thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số cần đưa vào các đề xuất và giải pháp để thúc đẩy phát triển trí tuệ nhân tạo thông qua 6 nhóm giải pháp chính như sau:

Thứ nhất, xây dựng mạng lưới chính sách để phối hợp việc xây dựng, kiến tạo, hoàn thiện và cải cách thể chế: nhằm phối hợp một cách có hệ thống, đồng bộ và cộng hưởng hiệu quả chính sách giữa các ngành, các lĩnh vực, các địa phương một cách hiệu quả, tránh tình trạng thiếu khớp nối, thiếu đồng bộ, chồng lắp, thiếu hụt, hay hình thành các điểm nghẽn, tạo hành lang thể chế thuận lợi nhất cho sự phát triển của trí tuệ nhân tạo.

Thứ hai, xây dựng mạng lưới công nghệ, dữ liệu, thông tin, tri thức về trí tuệ nhân tạo: việc phát triển trí tuệ nhân tạo trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam đòi hỏi phải có sự phối hợp một cách hiệu quả giữa các đơn vị công nghệ, các tổ chức, các mạng lưới nguồn dữ liệu. Chỉ có phối hợp hiệu quả các bên liên quan trong tiến trình phát triển trí tuệ nhân tạo, chúng ta mới hội đủ các nguồn lực và khả năng để phát triển trí tuệ nhân tạo một cách hiệu quả.

Thứ ba, xây dựng các yêu cầu về an ninh quốc phòng, an ninh thông tin, an toàn mạng: như đã phân tích, trí tuệ nhân tạo không chỉ là một công nghệ, nó còn mang tính chiến lược, tạo nên sức mạnh quốc gia, năng lực cạnh tranh và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các vấn đề an ninh quốc phòng. Do vậy, có một hành lang khung khổ cho các vấn đề an ninh, an toàn sẽ giúp cho sự phát triển trí tuệ nhân tạo được thuận lợi và đúng hướng.

Thứ tư, xây dựng các hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: các hoạt động này cần phải được tạo thành một chuỗi mang tính hệ thống, từ việc tạo các nguồn cán bộ giảng dạy, các nguồn tài trợ nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu và phát triển, các chương trình định hướng ở tầm quốc gia, khu vực và các đại học quốc gia, các trung tâm/trường trọng điểm để phát triển nguồn lực đủ số lượng, đạt chất lượng và đáp ứng hiệu quả cho các nhu cầu của thực tiễn.

Thứ năm, xây dựng các hệ thống cơ sở dữ liệu và nền tảng dữ liệu cho phát triển trí tuệ nhân tạo: dữ liệu đóng một vai trò quan trọng cho sự phát triển trí tuệ nhân tạo. Đảm bảo dữ liệu đúng - đủ - sạch - sống, cho phép huy động các nguồn dữ liệu, phối hợp hiệu quả các hoạt động thu thập, phân tích, xử lý dữ liệu, kiến tạo các nguồn cơ sở dữ liệu dùng chung sẽ góp phần quan trọng đặt nền tảng cho phép vận hành hiệu quả các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.

Thứ sáu, xây dựng một mạng lưới phối hợp thúc đẩy đầu tư và ứng dụng trí tuệ nhân tạo cho phát triển kinh tế số: đảm bảo huy động một cách hiệu quả các nguồn lực từ các nhà đầu tư, các công ty công nghệ, hình thành nên những nền tảng quan trọng đảm bảo nguồn vốn cho phép thúc đẩy các doanh nghiệp, các công ty khởi nghiệp, các dự án nghiên cứu, các dự án triển khai... góp phần đặt nền tảng cho phát triển trí tuệ nhân tạo bắt nhịp kịp thời với sự phát triển chung của thế giới, khu vực và theo yêu cầu của quốc gia.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Những cột mốc đánh dấu sự hình thành và phát triển của trí tuệ nhân tạo -https://nhandan.vn/nhung-cot-moc-danh-dau-su-hinh-thanh-va-phat-trien-cua-tri-tue-nhan-tao-post742632.html.

2. Công nghệ AI của hiện tại và tương lai - https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/20614/cong-nghe-ai-cua-hien-tai-va-tuong-lai.aspx.

3. Thomas M. Siebel - Chuyển đổi số - Nhà xuất bản Tổng hợp TPHCM, 2020.

4. Kai-Fu Lee - Các siêu cường AI - Trung Quốc, Thung lũng Silicon và trật tự thế giới mới - Nhà xuất bản Trẻ 2020.

5. Thủ tướng Chính phủ - Quyết định số 127/QĐ-TTg, ngày 26 tháng 01 năm 2021, Ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030.

6. Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia - Hiện trạng và xu hướng phát triển trí tuệ nhân tạo trên thế giới - Số 6/2022.

7. Phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm tại Việt Nam - https://baochinhphu.vn/phat-trien-va-ung-dung-tri-tue-nhan-tao-co-trach-nhiem-tai-viet-nam-1022402282212344.htm.

8. What is artificial intelligence? - https://aws.amazon.com/vi/what-is/artificial-intelligence/.

9. Viện Chiến lược Chuyển đổi số - Thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia - Nhà xuất bản CTQG-ST 2023.

10. Nick Bostrom - Siêu trí tuệ - Nhà xuất bản Thế giới 2021.

11. Gary Smith - Huyễn tưởng về trí tuệ nhân tạo - Nhà xuất bản Thế giới 2021.

12. Henry A. Kissinger, Eric Schmidt, Daniel Huttenlocher - Thời đại AI và tương lai loài người chúng ta - Nhà xuất bản Trẻ 2023.

13. Kai-Fu Lee & Chen Quifan - 10 viễn cảnh cho tương lai AI 2041 - Nhà xuất bản Thế giới 2023.

14. Mustafa Suleyman - Sóng thần công nghệ - Nhà xuất bản Thế giới 2024.

15. Hunter Muller - Dấu mốc 2025 - Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông 2024.

Ông Lê Nguyễn Trường Giang, Viện trưởng Viện Chiến lược Chuyển đổi số

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video