Ngày Dân số Việt Nam 26/12: Giữ mức sinh thay thế: Không chỉ là câu chuyện "sinh bao nhiêu con"
Giữ được mức sinh thay thế còn là bài toán về chất lượng cuộc sống, bình đẳng giới và sự phát triển bền vững của xã hội. Ảnh minh họa Những áp lực hiện hữu
Những năm gần đây, tỷ lệ sinh ở Việt Nam tiếp tục giảm sâu và đã xuống dưới mức sinh thay thế (khoảng 2,1 con/phụ nữ). Đây là ngưỡng dân số cân bằng giữa số người sinh mới và người mất đi. Năm 2024, tổng tỷ suất sinh của phụ nữ Việt Nam là khoảng 1,91 con, thấp nhất từ trước đến nay. Dự báo vẫn ở mức thấp trong thời gian tới, đặc biệt tại các thành phố lớn như TPHCM.
Khảo sát nhiều cặp vợ chồng trẻ cho thấy, áp lực kinh tế là rào cản lớn nhất, khi chi phí nhà ở, sinh hoạt và nuôi dạy con cái ngày càng cao, buộc nhiều cặp vợ chồng phải trì hoãn hoặc cân nhắc không sinh thêm con. Cùng với đó, áp lực công việc, quỹ thời gian hạn hẹp dành cho chăm sóc con khiến nhiều phụ nữ, nhất là ở khu vực đô thị, gặp khó khăn trong việc cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình. Ngoài ra, các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc trẻ nhỏ, giáo dục và y tế trước và sau sinh chưa thật sự dễ tiếp cận và đồng đều về chất lượng giữa các vùng, tạo thêm rào cản đối với quyết định sinh con.
Trước thực trạng này, chính sách "sinh đủ hai con trước 35 tuổi" đang được xem là một phương án phù hợp trong bối cảnh duy trì mức sinh thay thế. Các cơ quan chức năng đã đề xuất những gói hỗ trợ tài chính và phúc lợi cho phụ nữ sinh hai con trước tuổi 35 nhằm giảm bớt gánh nặng chi phí và khuyến khích sinh con sớm. Tại một số địa phương như TPHCM, chính quyền bắt đầu triển khai hỗ trợ tài chính trực tiếp cho những trường hợp đáp ứng tiêu chí.
Tuy nhiên, sinh con không chỉ là câu chuyện "bao nhiêu con" mà cần được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống an sinh xã hội, dịch vụ y tế - giáo dục và chất lượng sống tổng thể của gia đình. Việc khuyến khích sinh đủ 2 con phải đi đôi với bảo đảm quyền lựa chọn và quyền làm mẹ của phụ nữ, bao gồm quyền tự quyết định sinh con, quyền tiếp cận dịch vụ y tế sinh sản an toàn và không bị ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào.
GS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên cao cấp Đại học Kinh tế Quốc dân, chuyên gia kinh tế học về dân số và chính sách xã hội
Cần hệ thống chính sách tổng thể, đồng bộ và dài hạn
Chính sách dân số vì thế không nên chỉ tập trung vào "con số" mà bỏ qua những "điều kiện sống thiết yếu" để nuôi dạy con cái khỏe mạnh, hạnh phúc. GS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên cao cấp Đại học Kinh tế Quốc dân, chuyên gia kinh tế học về dân số và chính sách xã hội, cho rằng tại các đô thị lớn ở Việt Nam đang hình thành một xu hướng rất rõ ràng, tương đồng với quá trình phát triển. Theo quy luật, khi mức sống và thu nhập còn thấp, các gia đình thường sinh nhiều con; bởi con cái được coi như một dạng "an sinh xã hội phi chính thức".
Việc sinh nhiều con khi còn trẻ gắn với kỳ vọng được con cái hỗ trợ khi về già. Cùng với đó là mong muốn có thêm lao động và tâm lý thích con trai, bắt nguồn từ nhu cầu lao động nặng nhọc và những quan niệm văn hóa truyền thống mang tính bất bình đẳng giới, coi nhẹ vai trò của phụ nữ và đề cao việc duy trì hương hỏa, dòng tộc. Những yếu tố này từng khiến mong muốn sinh nhiều con, đặc biệt là con trai, trở nên phổ biến.
Khi kinh tế - xã hội phát triển, theo GS.TS Giang Thanh Long, quan niệm và hành vi sinh sản cũng thay đổi rõ rệt. Nhất là ở các đô thị phát triển như Hà Nội và TPHCM, tỷ suất sinh hiện nay thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế. Từ góc độ quản lý đô thị, thách thức lớn hiện nay không chỉ nằm ở mức sinh thấp mà còn ở việc bảo đảm cung cấp đầy đủ các dịch vụ cơ bản để phụ nữ "yên tâm sinh con". Cụ thể như đáp ứng được nhu cầu nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường, trường học và các dịch vụ xã hội đang rất căng thẳng ở các đô thị hiện nay. Vì vậy, chính sách dân số cần được xây dựng trên nền tảng bao trùm toàn bộ cư dân đô thị, không phân biệt tình trạng hộ khẩu.
Để giữ được mức sinh hợp lý, không thể chỉ trông chờ vào tuyên truyền mà cần một hệ thống chính sách tổng thể, đồng bộ và dài hạn. Thời gian qua, nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh vấn đề cơ cấu dân số, già hóa dân số, đồng thời điều chỉnh chính sách dân số, trao quyền chủ động hơn cho người dân trong quyết định số con. Song song với đó là việc mở rộng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, tăng cường tiếp cận dịch vụ y tế ở vùng sâu, vùng xa thông qua hệ thống y tế cơ sở và bác sĩ gia đình.
Về lâu dài, GS.TS Giang Thanh Long cho rằng: Chính sách dân số cần được nhìn nhận như một quá trình động, gắn với việc chuẩn bị cho chất lượng cuộc sống của các thế hệ tương lai. Trong bối cảnh xuất hiện "thế hệ bánh mỳ kẹp", họ vừa chăm sóc cha mẹ già vừa nuôi dạy con cái. Nếu gánh nặng này không được chia sẻ bằng các dịch vụ xã hội phù hợp, người trẻ sẽ càng ngại sinh thêm con. Khi tháo gỡ được rào cản này, phụ nữ mới có thể yên tâm tham gia thị trường lao động và đưa ra quyết định sinh con một cách bền vững.
Giữ được mức sinh thay thế không chỉ là mục tiêu quốc gia về dân số, mà còn là bài toán về chất lượng cuộc sống, bình đẳng giới, và sự phát triển bền vững của xã hội. Vì vậy, các giải pháp chính sách cần cân bằng giữa khuyến khích sinh con và bảo đảm an sinh - sao cho quyết định sinh con phải gắn với quyền lựa chọn, chất lượng dịch vụ xã hội và an toàn sức khỏe cho phụ nữ.
| Duy trì mức sinh thay thế là một mục tiêu lý tưởng nhằm giữ ổn định quy mô dân số, song đây là mục tiêu khó đạt được nếu thiếu một hệ thống chính sách đồng bộ. Nhật Bản và Hàn Quốc là những ví dụ điển hình khi đã chi hàng trăm tỷ USD trong 15-20 năm qua để khuyến khích sinh con nhưng kết quả vẫn rất hạn chế. Năm 2024, Hàn Quốc ghi nhận năm thứ sáu liên tiếp có mức sinh dưới 1, chỉ còn 0,68 con/phụ nữ; Nhật Bản duy trì mức sinh khoảng 1-1,1 trong gần hai thập kỷ. Các khảo sát tại 2 quốc gia này cho thấy nhiều người vẫn mong muốn có con, nhưng phải đối mặt với những rào cản lớn như việc làm không ổn định, chi phí nhà ở cao và đặc biệt là rủi ro nghề nghiệp đối với phụ nữ sau sinh. Nỗi lo khó quay lại vị trí công việc cũ, sự nghiệp bị gián đoạn và thiếu cam kết bảo đảm việc làm từ phía người sử dụng lao động khiến nhiều phụ nữ trì hoãn hoặc từ bỏ ý định sinh con. |
