"Nguyên tiêu" của Hồ Chí Minh

27/02/2010
Một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất nét phong cách này của Người là “Nguyên tiêu” – một thi phẩm mang đậm phong vị Đường thi mà vẫn thấm đẫm cảm quan hiện đại của một chiến sĩ

Hồ Chí Minh không chỉ là người anh hùng giải phóng dân tộc, mà còn là nhà thơ lớn của đất nước trong thế kỉ 20. Người đã lấy văn thơ làm vũ khí chiến đấu sắc bén cho sự nghiệp phấn đấu vì độc lập tự do và cơm áo hòa bình của nhân dân ta. Tâm hồn nhạy cảm kết hợp với một trí tuệ siêu việt đã tạo nên một nhà thơ lỗi lạc với một phong cách độc đáo - Cổ điển mà hiện đại.

Một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất nét phong cách này của Người là “Nguyên tiêu” – một thi phẩm mang đậm phong vị Đường thi mà vẫn thấm đẫm cảm quan hiện đại của một chiến sĩ:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên

Yên ba thâm sứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền

(Nguyên tiêu – Hồ Chí Minh)

Dịch thơ:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền

(Xuân Thủy)

Nhà thơ Xuân Thủy kể lại: Đầu xuân năm 1948, Bác chủ trì cuộc Hội nghị Trung ương mở rộng, nhằm vạch ra phương hướng và nhiệm vụ mới cho một giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Sau cuộc họp, Bác xuôi thuyền về nơi căn cứ. Nhân trăng sáng, cảnh đẹp, Bác cảm hứng đọc bài thơ. Phút thi hứng ấy của Người đã để lại cho chúng ta một áng thơ trác tuyệt.

Bài thơ được làm bằng chữ Hán, mang âm hưởng Đường thi nhưng vẫn đậm đà màu sắc dân tộc thể hiện qua hơi thở thời đại ấm áp trong đó.

Câu thơ đầu tiên như một câu kể đơn thuần:

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên”

(Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng sáng)

             (Rằm xuân lồng lộng trăng soi)

Nhưng chính trong sự giản dị ấy, cái hay của ý thơ mới phát lộ. Khi dịch thơ, nhà thơ Xuân Thủy đã thêm vào chữ lồng lộng mà mất đi chữ “chính viên”. “Chính viên” là vừa tròn - ở độ viên mãn nhất. Nhà thơ không tả (lồng lộng) mà chỉ kể, để cảnh tự nói lên tất cả. Cái đẹp của buổi đêm, của trăng đã nằm trong sự khẳng định “chính viên” của thi nhân. Không gian (kim dạ), thời gian (nguyên tiêu), cảnh vật (nguyệt chính viên) như hài hòa, đan tựa vào nhau, tạo nên một bức tranh cảnh đặc sắc. Đây là sự học tập từ Đường thi: ngắn gọn, cô đúc, gợi mà không tả tạo nên cái mênh mang của cảnh trong lòng độc giả.

Từ sự mộc mạc đó, câu thơ thứ hai đột ngột bừng sáng với sự xuất hiện của ba từ “xuân”:

“Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên”

(Sông xuân, nước xuân liền với trời xuân)

(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)

Ba từ xuân hòa vào nhau làm cho khung cảnh như bao phủ một sắc xuân ngập tràn. Đêm chiến khu 1948 ấy, xuân như chảy dài theo dòng sông, lan rộng cùng mặt nước và vút lên tận trời cao. Ta nhận ra trong đó một thi hứng, xuân hứng dâng trào. Bản dịch thơ của Xuân Thủy đã làm mất đi 1 chữ xuân, như Bác nhận xét: “Dịch lưu loát, giữ được chất thơ, nhưng dòng thứ hai có ba chữ xuân hòa với nhau mà bản dịch chỉ có hai chữ xuân, thế là ý đủ mà chữ còn thiếu”…. Về sau, nhà thơ Xuân Thủy đã khéo đưa chữ xuân lên câu thứ nhất để giữ đủ ba chữ xuân của Hán tự. Nhưng giữa ba chữ xuân trên cùng một dòng và ba chữ xuân trên cả hai dòng là cả một khoảng cách không nhỏ. Bởi trong nguyên tác, sự lặp lại đó vừa chuyển tải nội dung vừa là điểm nhấn của hình thức nghệ thuật. Chữ “tiếp” trong câu thơ này cũng là một đặc sắc mà Xuân Thủy đã không giữ được trong bản dịch.“Tiếp” là nối liền, tạo một không gian trải dài, từ nước, sông vút lên trời cao. Xuân không chỉ ở bề mặt rộng mà còn nối dài bất tận. Nhà thơ Xuân Thủy thay đó bằng chữ “lẫn” dẫu đã phản ánh được phần nào sự hài hòa, ngập tràn của xuân nhưng thu hẹp không gian và phạm vi ảnh hưởng của nó, làm giảm đi hiệu ứng của bài thơ.

Xuân hứng đã trở thành thi hứng dẫn mạch thơ đi như ngọn sóng trào. Hai chữ thiên – yên bắt vần thật tự nhiên để dẫn dắt tới câu thứ ba:

Yên ba thâm sứ đàm quân sự

(Sâu trong khói sóng bàn việc quân)

(Giữa dòng bàn bạc việc quân)

Hình ảnh “yên ba thâm sứ” mang đến một không khí rất Đường thi, gợi ta nhớ đến câu thơ xưa của Thôi Hiệu:

“Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
                                                                                        (Hoàng hạc lâu – Thôi Hiệu)

Nhưng Hồ Chí Minh là một nhà thơ chiến sĩ. Vì vậy mà không khí thơ cổ ấy lại ghi khắc được cả màn sương mù dày đặc vùng cao những ngày mùa đông Việt Bắc. Và điều đặc biệt nhất là không gian của màn sương huyền ảo và kín đáo đó lại là nơi những nhà cách mạng đang trao đổi những điều có tính chất sống còn của Tổ quốc, của dân tộc. Đến đây ta mới cảm nhận rõ hơn những vần thơ của Hoàng Trung Thông về Bác:

“Những vần thơ Bác vần thơ thép

Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”

(Hoàng Trung Thông)

Cái “tình” và cái “thép” hài hòa đã giúp Bác nhận ra xuân hứng ngay trong khi bàn việc nước, để khởi hứng lên những vần thơ độc đáo:

“Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”

(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)

(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)

Âm hưởng Đường thi đậm đà trong câu thơ khiến không ít người đã nhầm với một câu thơ trong bài “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế:

“Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”

(Phong kiều dạ bạc – Trương Kế)

Ngôn từ gần giống nhau nhưng tứ thơ hoàn toàn khác biệt. Trong thơ Trương Kế, tiếng chuông là âm hưởng chủ đạo thì trong thơ Hồ Chí Minh, trăng mới là nhân vật chính. Đó chính là điều làm nên sức sống, màu sắc riêng của Hồ Chí Minh. Thanh huyền ở vần kết bài thơ (thuyền) gợi cho ta một không gian thật bát ngát, cũng là dư vang cho cả bài thơ. Trăng từ chỗ chỉ là một vừng ở câu đầu (nguyệt chính viên), đã thành trăng ánh một trời nơi câu cuối (nguyệt mãn thuyền). Thi nhân trở về trên con thuyền đầy trăng. Nên thơ biết bao, giống như những tao nhân mặc khách của truyền thống phương Đông. Con thuyền của nhà quân sự thoắt biến thành thi tứ. Nó trở thành con thuyền đong đầy ánh trăng, sáng lấp lánh. Nó cho ta thấy niềm lạc quan yêu đời phơi phới của người thi sĩ, chiến sĩ Hồ Chí Minh. Ai cũng biết, trăng và thơ luôn là hai người bạn tri kỉ, song hành trong suốt cuộc đời cách mạng gian khó của Bác. Đã bao lần ta bắt gặp trăng trong thơ Người:

“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

(Cảnh khuya)

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

(Vọng nguyệt)

Vẫn là vầng trăng tình nghĩa gắn bó bao lâu, nhưng ở mỗi bài lại có những cảm nhận mới. Trong “nguyên tiêu”, trăng mang một điều gì đó thật xúc động, như một người bạn nhẹ nhàng, lặng lẽ, tạo nên khoảnh khắc bình yên quý giá trong cuộc đời đầy thử thách của tác giả.

Cảm hứng bao trùm “nguyên tiêu” là cảm hứng của niềm vui, hạnh phúc, hi vọng và tin tưởng. Chỉ khắc họa một khoảnh khắc mà gợi lên những giá trị vĩnh cửu.

Bài thơ là sự kết hợp hài hòa vẻ đẹp cổ điển và màu sắc hiện đại. Nó mang đến cho ta bức chân dung tinh thần của Hồ Chí Minh – một cái tôi trữ tình mà vẫn đầy chất “thép”, đúng như thi sĩ Phê-lích Pi-ta Rô-đri-ghét đã từng đúc kết giản dị:

“Bởi vì Người là Chủ tịch Hồ Chí Minh

Nhà thơ Hồ Chí Minh

Người nông dân trầm tĩnh Hồ Chí Minh….”

Và Người sẽ còn sống mãi, trường tồn cùng đất nước Việt Nam, đẹp sáng ngời như vầng “Nguyên tiêu”!

Sao Thụy

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video