50 năm thực hiện Di chúc Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam

30/08/2019
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người. Đến nay, sau 50 năm, bản Di chúc vẫn còn vẹn nguyên giá trị, là sự kết hợp chặt chẽ giữa tính khoa học và tính thực tiễn trên nền tảng chủ nghĩa nhân văn cao đẹp, làm nên giá trị chân chính và trường tồn, là những chỉ dẫn quý báu, động lực tinh thần vô giá dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Thực hiện lời dạy của Người, Hội LHPN Việt Nam đã có những nỗ lực trong công cuộc chăm lo, bảo vệ phụ nữ, thúc đẩy việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam.

1. Thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ vừa là biện pháp, vừa là một trong những mục tiêu giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam mà nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Trong Tuyên ngôn Độc lập, Người khẳng định:"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Con người là động lực to lớn quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng vĩ đại nhưng đầy khó khăn phải biết phát huy nhân tố con người, phải biết dùng người, phát huy phẩm chất (đức) và năng lực (tài) của mỗi người nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp cho khối đại đoàn kết dân tộc để giải quyết những nhiệm vụ cách mạng.:“Có lực lượng dân chúng việc to tát đến mấy cũng làm được. Không có, việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra[1]; “Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong”[2].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò, vị thế và khả năng cách mạng của phụ nữ. Người viết: Lực lượng phụ nữ là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng, một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm mọi thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Người chỉ rõ: “An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”[3].

Người quan niệm “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội một nửa”[4].

Từ lời nói đến việc làm của Người đều toát lên một quan điểm thống nhất, đó là chăm lo, phát huy vai trò của phụ nữ. Thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ vừa là biện pháp, vừa là mục tiêu trong sự nghiệp cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu tình cảnh, thân phận của phụ nữ dưới chế độ phong kiến, thực dân. Người nêu phụ nữ cần được giải phóng về chính trị, xã hội và tính tự ti, phụ thuộc; giải phóng phụ nữ nhằm phát triển năng lực cá nhân phụ nữ, huy động phụ nữ tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo nhiều cơ hội cho phụ nữ vươn lên, thật sự bình đẳng với nam giới. Người chỉ rõ: “Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau[5]. Tư tưởng của Người đã được chính thức xác lập trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, trong đó, Điều 24 đã ghi rõ: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”, Điều 9 khẳng định: “Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi phương diện”, là cơ sở pháp lý quan trọng để Đảng và Nhà nước ta từng bước thực hiện mục tiêu bình đẳng nam nữ.

Trong suốt quá trình Cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu các cấp Đảng, chính quyền phải có chủ trương, chính sách, giải pháp thật cụ thể, thiết thực để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào công tác chính quyền, đoàn thể. Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện; không thành kiến, hẹp hòi với phụ nữ và coi việc phát huy vai trò và năng lực sáng tạo của phụ nữ là trách nhiệm của toàn xã hội. Người nói: “Cán bộ đã cố gắng còn phải cố gắng hơn nữa, … đi sâu đi sát hơn nữa trong các ngành sản xuất, thông cảm sâu sắc hơn nữa với quần chúng và ra sức giúp đỡ chị em giải quyết những thắc mắc, những khó khăn … Anh em cán bộ, các cấp, các ngành cần hết lòng giúp đỡ chị em tiến bộ về mọi mặt. Các đồng chí làm được như vậy thì phong trào phụ nữ nhất định không ngừng được nâng cao”[6]. Ngành nào, địa phương nào có tư tưởng hẹp hòi, chưa quan tâm đến phụ nữ, không đánh giá đúng khả năng của phụ nữ, Người kịp thời nhắc nhở, phê phán. Người còn yêu cầu các cấp lãnh đạo phải có chủ trương, biện pháp bảo vệ sức khoẻ phụ nữ: “Phải đặc biệt chú ý đến sức lao động của phụ nữ. Phụ nữ là đội quân lao động rất đông. Phải giữ gìn sức khoẻ cho phụ nữ để tham gia sản xuất được tốt”[7].

Bác khuyên giới nữ phải tự biết tôn trọng mình mới làm nên mọi việc: “Phụ nữ phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu; phải xóa bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí khí tự cường, tự lập”[8]. khi thấy cán bộ nữ trưởng thành, tiến bộ, Người động viên, khuyến khích kịp thời.

Để đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần đưa phụ nữ vào các hoạt động chính trị, xã hội, vì đó là hai môi trường thuận lợi để phụ nữ khẳng định, phát huy hết khả năng, phát huy khả năng vốn có của mình. Muốn vậy, trước hết phải tôn trọng, quan tâm, chú ý đến tính đặc thù của phụ nữ, đồng thời phải phân công sắp xếp lại lao động xã hội, tổ chức lại đời sống để phụ nữ có thời gian học tập và tham gia công tác xã hội. Tất cả những biện pháp đó phải được thể chế hóa bằng pháp luật. Người cho rằng, sự nghiệp giải phóng phụ nữ không dừng lại ở lý luận, tư tưởng mà quan trọng hơn là phải bằng những giải pháp, chính sách cụ thể tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội đem lại quyền lợi vật chất, tinh thần cho phụ nữ.

Đánh giá cao vai trò của phụ nữ, Bác đã dành những từ đẹp nhất để ngợi ca phụ nữ Việt Nam: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”... ''Nhân dân ta anh hùng là nhờ có các bà mẹ Việt Nam anh hùng"... "Dân tộc ta và Đảng ta đời đời biết ơn các bà mẹ Việt Nam đã sinh ra và cống hiến những người ưu tú, đã và đang chiến đấu anh dũng tuyệt vời bảo vệ non sông gấm vóc do tổ tiên ta để lại".Đảng và Bác đã tặng phụ nữ Việt Nam 8 chữ vàng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, một lần nữa Người ghi nhận tinh thần chiến đấu, hy sinh và căn dặn toàn dân ta phải quan tâm, bồi dưỡng, cất nhắc phụ nữ:Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất, Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.  

Năm mươi năm qua, Di chúc của Bác với những lời căn dặn Đảng ta trong công tác chăm lo đời sống nhân dân nói chung, phụ nữ nói riêng thực sự soi sáng cho các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về phụ nữ và là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân cũng như các tầng lớp phụ nữ Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành các nhiệm vụ của cách mạng, đặc biệt trong công cuộc đổi mới.

2. Quan điểm của Đảng thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam

Trong từng giai đoạn, Đảng đã ban hành các chủ trương, nghị quyết để lãnh đạo các ngành, các cấp và Hội LHPN Việt Nam về công tác phụ nữ và thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ.

Ngay từ thời kỳ đầu đổi mới, công tác vận động phụ nữ được xác định rõ trong Nghị quyết 04-NQ/TW của Bộ Chính trị[9].Nghị quyết khẳng định: Sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình. Đường lối giải phóng phụ nữ phải được thể chế hóa và cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước”. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng chỉ rõ: Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới[10].

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,bên cạnh việc chăm lo cho phụ nữ, Đảng đã lãnh đạo phải phát huy vai trò chủ thể, sự chủ động đóng góp của phụ nữ với tư cách là nguồn nhân lực quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước.Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 24/4/2007 về công tác phụ nữ tiếp tục khẳng định: “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đổi mới công tác phụ nữ để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều hơn, chủ động hơn, đóng góp ngày càng lớn hơn cho sự phát triển của gia đình, cộng đồng, đất nước và thực hiện bình đẳng giới”. Nhờ đó phụ nữ ngày càng chủ động, tích cực và có nhiều đóng góp quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nguồn nhân lực nữ chất lượng cao từng bước hình thành, trong lĩnh vực chính trị, tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ngày càng tăng, trong đó nhiều chị đảm nhiệm các vị trí chủ chốt ở cả Trung ương và địa phương; trong các hoạt động khoa học công nghệ, nhiều công trình nghiên cứu cấp Nhà nước do phụ nữ làm chủ đề tài đã đóng góp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, ứng dụng vào sản xuất và hoạt động thực tiễn đem lại lợi ích trên nhiều lĩnh vực.

Các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã thể chế hóa tương đối đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác phụ nữ, tạo cơ sở để đưa Việt Nam trở thành một nước có nhiều tiến bộ trong xây dựng khung khổ pháp lý về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ, tạo cơ hội bình đẳng cho phụ nữ. Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các chính sách, chương trình bảo vệ và hỗ trợ phụ nữ[11] với nhiều quy định mới tiến bộ[12]. Một số luật riêng biệt về những vấn đề liên quan đến phụ nữ như Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã được ban hành… Vai trò của các cấp Hội trong tham gia quản lý nhà nước tiếp tục được khẳng định. Nghị định 56/2012/NĐ-CP[13] quy định trách nhiệm của Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm cho Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước đã tạo cơ chế, điều kiện để các cấp Hội hoạt động, huy động sự tham gia của phụ nữ trong việc thực hiện các mục tiêu về bình đẳng giới, góp phần thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của đất nước thông qua triển khai thực hiện các Đề án, chương trình cụ thể[14].

Với mục tiêu cao nhất là sự phát triển bền vững và không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình hội nhập quốc tế, việc chăm lo, phát huy vai trò phụ nữ, bên cạnh tiếp tục mục tiêu “xây dựng người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện”,Chỉ thị 21-CT/TW ngày 20/1/2918 của Ban bí thư TW Đảng đã xác định giải pháp quan trọng: “xây dựng và thực hiện các chính sách đặc thù hỗ trợ phụ nữ ở vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo, phụ nữ là người dân tộc thiểu số, phụ nữ khuyết tật, đơn thân, cao tuổi, phụ nữ mang thai và nuôi con nhỏ, lao động nữ di cư, chuyển đổi nghề”[15]. Không chỉ quan tâm, chăm lo cho phụ nữ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, chủ trương của Đảng còn tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội thông qua hệ thống luật pháp chính sách tương đối đồng bộ[16]. Chính phủ đã ban hành Chiến lược Phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, phê duyệt và triển khai thực hiện nhiều đề án hỗ trợ phát triển gia đình. Nhiều chính sách an sinh xã hội, chương trình, đề án hỗ trợ gia đình, góp phần thay đổi vai trò truyền thống, giảm bớt công việc gia đình, tạo điều kiện để người phụ nữ có thời gian học tập nâng cao trình độ, tham gia các hoạt động xã hội.

3. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo, phát huy vai trò, thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ

Với vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ, đại diện cho các tầng lớp phụ nữ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội LHPN các cấp đã thực hiện tốt chức năng đại diện chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, phát huy vai trò, sự đóng góp của phụ nữ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước thông qua các phong trào thi đua, các cuộc vận động như: cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình và “Phụ nữ nuôi dạy con tốt” (thời kỳ đầu đổi mới), phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đinh hạnh phúc”, cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, rèn luyện phẩm chất đạo đức “ Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang.

Trong những năm qua, Hội LHPN Việt Nam đã tham mưu với Ban Bí thư sơ kết 5 năm, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW và ban hành Kết luận số 55-KL/TW ngày 18/1/2013, Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/1/2018 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Việc thực hiện chức năng đại diện cho các tầng lớp phụ nữ, nâng cao quyền làm chủ cho phụ nữ của Hội ngày càng được thực hiện chủ động, hiệu quả hơn, nhất là trong tham gia xây dựng luật pháp, chính sách, đặc biệt những luật pháp, chính sách liên quan tới bình đẳng giới và quyền lợi của phụ nữ; công tác giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách đối với phụ nữ cũng được chú trọng; trong giám sát đã kịp thời phát hiện được những điểm bất hợp lý, những vấn đề nảy sinh và có những đề xuất biện pháp giải quyết kịp thời. Thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW về “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” và Quyết định 218-QĐ/TW “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền” đã phát huy sự tham gia của các tầng lớp phụ nữ thông qua vai trò đại diện của các cấp Hội trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Nội dung, phương thức giám sát được chỉ đạo đồng bộ trong hệ thống Hội, tập trung vào những chính sách có liên quan đến công tác phụ nữ và quyền lợi thiết thân của phụ nữ như chính sách đối với người có công, việc thực hiện Nghị định 56/2012/NĐ-CP, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân, Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm... 100% tỉnh/thành Hội hoàn thành chỉ tiêu giám sát chính sách. Trên cơ sở hoạt động giám sát, các cấp Hội đã khuyến nghị các cấp ủy đảng, chính quyền sửa đổi, bổ sung hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các văn bản quy định.

Những năm qua, hoạt động của Hội LHPN Việt Nam hướng đến mở rộng tính liên hiệp để vừa tăng cường vai trò đại diện, vừaxây dựng, phát huy sự tham gia, vai trò của nguồn nhân lực nữ chất lượng cao như đội ngũ nữ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nữ doanh nhân, nữ trí thức. Các cấp Hội đã phối hợp các ngành, sử dụng đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, nắm vững tâm tư, nguyện vọng, tình hình đời sống của các tầng lớp phụ nữ; thu hút các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đồng hành chăm lo, giải quyết những vấn đề thiết yếu, cấp bách nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp phát của phụ nữ; tăng cường vận động lồng ghép giới trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Bên cạnh các giải pháp cụ thể dành cho nhóm phụ nữ đặc thù, khó khăn như phát động và tổ chức thực hiện các chương trình “Mái ấm tình thương”, “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”.... Các cấp Hội đã xác định việc hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc và xây dựng người phụ nữ Việt Nam là một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong nhiều nhiệm kỳ; phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan tổ chức triển khai các đề án về xây dựng gia đình, cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực, trình độ cho phụ nữ, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giáo dục gia đình, chăm sóc sức khỏe và an toàncho phụ nữ, trẻ em…

Có thể nói, thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bám sát sự lãnh đạo của Đảng, các cấp Hội LHPN Việt Nam đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội đã góp phần nâng cao nhận thức xã hội về vai trò, khả năng phụ nữ; đời sống, việc làm, điều kiện lao động, học tập, vui chơi, giải trí của phụ nữ không ngừng được cải thiện; trình độ, năng lực của phụ nữ được nâng lên, đảm bảo bình đẳng giới. Phụ nữ tự tin, chủ động hơn, được thụ hưởng các thành quả trong quá trình phát triển, đồng thời khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong gia đình và xã hội, đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.

3. Kiến nghị, đề xuất

Việc thực hiện quyền bình đẳng trong thực tiễn đổi mới ở nước ta trong những năm qua đã giành được những kết quả bước đầu, góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, cùng với những kết quả đạt được thì việc chăm lo, phát huy nhân tố con người Việt Nam trong xây dựng, phát triển đất nước thời gian qua để đạt tới sự bình đẳng trong xã hội vẫn còn không ít những hạn chế, yếu kém.

Đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; tỉ lệ hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ còn cao và có xu hướng tăng, đặc biệt ở nhóm dân tộc thiểu số. Lao động nữ nông thôn ít được đào tạo nghề chuyên môn kỹ thuật; phụ nữ chủ yếu tập trung ở khu vực phi chính thức; thu nhập bình quân thấp hơn so với nam giới. Doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ và quản lý phần lớn ở quy mô nhỏ và cực nhỏ, năng lực cạnh tranh thấp.Tình trạng sức khỏe và chăm sóc y tế cho phụ nữ còn bất cập; tỉ lệ tử vong mẹ, tỉ lệ nạo phá thai, đặc biệt ở tuổi vị thành niên còn cao so với một số nước trong khu vực; tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn ở mức báo động; bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái có xu hướng gia tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng.Ngay tại các bộ, ngành và những đơn vị hành chính, kinh tế lớn, vấn đề bình đẳng giới vẫn còn gặp những khó khăn nhất định. Việc bồi dưỡng, phát triển cán bộ nữ còn hạn chế. Tỷ lệ thất nghiệp trong nữ giới có xu hướng cao dần lên trong cả khu vực công và tư; tình trạng thất học, bỏ học của trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa còn khá phổ biến; khoảng cách giàu nghèo giữa đô thị với nông thôn, vùng sâu, vùng xa vẫn còn khá lớn…

Ngoài ra, còn thiếu các chính sách hỗ trợ cho một số đối tượng đặc thù như phụ nữ khuyết tật, đơn thân, phụ nữ cao tuổi, phụ nữ đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, phụ nữ di cư… Lực lượng phụ nữ có trình độ cao, phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý có tỷ lệ thấp so với năng lực, tiềm năng, thế mạnh và sự phát triển của nguồn nhân lực nữ. Hoạt động của Hội LHPN Việt Nam chưa thực sự bắt kịp với nhu cầu ngày càng đa dạng của phụ nữ và yêu cầu phát triển, hội nhập sâu rộng của đất nước, còn hạn chế trong nghiên cứu, dự báo, ứng dụng công nghệ thông tin để có những giải pháp phù hợp với tình hình mới, thiếu khả năng linh hoạt đáp ứng nhanh với những vấn đề mới nảy sinh ảnh hưởng, tác động đến phụ nữ và mục tiêu bình đẳng giới.

Để tiếp tục thực hiện nội dung quan trọng trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của phụ nữ, trong thời gian tới, cần tiếp tục có sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị; sự nỗ lực của toàn dân, trong đó có phụ nữ.

Đề nghị Đảng và Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; phát huy dân chủ; quan tâm thực hiện tốt chính sách xã hội để tạo điều kiện phát huy nhân tố con người, tập trung xây dựng con người phát triển toàn diện về đạo dức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh. Đặc biệt là lãnh đạo, thể chế hoá những quan điểm về bình đẳng giới thông qua các chính sách, pháp luật; tiếp tục hoàn thiện các chính sách có liên quan đến công tác phụ nữ, gia đình và vấn đề bình đẳng giới. Đề ra các giải pháp hữu hiệu để đưa Nghị quyết, chính sách, pháp luật vào cuộc sống; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn xã hội về bình đẳng giới; tăng cường sự tham gia của cán bộ nữ vào bộ máy các cơ quan lãnh đạo các cấp; định kỳ hàng năm kiểm tra việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.

Về phần mình, Hội LHPN Việt Nam tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, tổ chức các hoạt động thiết thực phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của phụ nữ và nhiệm vụ chính trị được giao. Chú trọng nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ các cấp để thực hiện tốt hơn vai trò đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ. Tăng cường tham mưu cho Đảng có những chính sách cụ thể, kịp thời động viên khuyến khích chị em vươn lên đảm nhận trách nhiệm trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong đó có đông đảo lực lượng phụ nữ ra sức thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII với niềm tin sâu sắc và tinh thần đổi mới mạnh mẽ đưa đất nước vượt qua khó khăn, phát triển bền vững, phồn vinh và hạnh phúc, thực hiện thắng lợi mục tiêu bình đẳng giới, vì sự phát triển của phụ nữ Việt Nam.




[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.335

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.280

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 289

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 3, trang 523.

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 260.

[6]Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 10, tr. 296 - 297 (Bài nói chuyện tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần III, ngày 9/3/1961, Báo Nhân Dân, số 2546, ngày 10/3/1961)

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.259-260

[8] Bác phát biểu tại Đại hội Liên hoan Phụ nữ “năm tốt” ngày 30/4/1964

 11 Nghị quyết 04- NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới.

[10] Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2001), tr. 126

[11]Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật phòng, chống mua bán người, Luật Hôn nhân và Gia đình.

[12]Giảm số năm đóng bảo hiểm xã hội từ 20 năm xuống 15 năm cho lao động nữ là người hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn để đủ điều kiện hưởng lương hưu; hỗ trợ phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số; tăng thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên 6 tháng; lần đầu tiên có quy định nam giới được nghỉ khi vợ sinh con...

[13] Nghị định 56/2012/NĐ- CP Quy định trách nhiệm của Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm cho các cấpHội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước

[14] Đề án Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (giai đoạn 2010-2015), Đề án  “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ” (giai đoạn 2017 - 2027), Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp” (giai đoạn 2017-2025)...

[15] Chỉ thị 21 - CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư về công tác phụ nữ trong tình hình mới

[16]Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Đất đai 2013.

Nguyễn Thị Tuyết, Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video