Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước

27/01/2016
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, đồng chí Nguyễn Thị Thanh Hòa, UV TW Đảng khóa XI, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam đã có bài tham luận về Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước.
Website TW Hội LHPN Việt Nam xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài tham luận này

Kính thưa Đoàn Chủ tịch!

Kính thưa Đại hội!

Thực hiện sự chỉ đạo của TW Đảng, Hội LHPN Việt Nam đã tổ chức để hội viên phụ nữ tham gia góp ý vào dự thảo văn kiện ĐH đảng lần thứ XII và đã có báo cáo tổng hợp các ý kiến. Hôm nay được sự đồng ý của Đoàn Chủ tịch, tôi xin tham luận vấn đề “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước”.

Kính thưa Đại hội!

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIđề ra nhiệm vụ Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình; tăng tỉ lệ phụ nữ tham gia vào cấp uỷ và bộ máy quản lý nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 5 năm qua, các cấp các ngành đã tổ chức thực hiện nhiệm vụ đạt nhiều thành tựu quan trọng. Bình đẳng giới là một trong ba mục tiêu thiên niên kỷ về đích trước thời hạn; hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan đến phụ nữ ngày càng được hoàn thiện cùng nhiều chính sách, chương trình, đề án đi vào cuộc sống; đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 5%; địa vị của người phụ nữ trong xã hội và gia đình ngày càng được tôn trọng. Phụ nữ được tạo điều kiện để thực hiện vai trò người mẹ, người công dân, người lao động. Theo UNDP, Việt Nam hiện đứng thứ 58 về chỉ số bình đẳng giới, cao hơn nhiều so với xếp hạng về chỉ số phát triển con người của Việt Nam

Công tác phát triển nguồn nhân lực nữ đã được Đảng quan tâm bằng chủ trương, đường lối, được Nhà nước cụ thể hóa thành các chính sách, quy định pháp luật. Chính phủ đã ban hành Chiến lược nhân lực Việt Nam, Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Hầu hết các bộ ngành, địa phương đã ban hành qui hoạch phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi ngành, lĩnh vực, địa bàn. Nhờ có hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp, chất lượng nguồn nhân lực từng bước được cải thiện; tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho xã hội, trong đó lao động nữ với qui mô tương đối lớn, cơ cấu đa dạng, có mặt ở hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân, một số ngành lao động nữ chiếm số đông. Đội ngũ cán bộ nữ có bước trưởng thành. Trong đại hội Đảng các cấp vừa qua, tỷ lệ nữ cấp ủy các cấp đều tăng, cụ thể: cấp tỉnh nhiệm kỳ 2016 - 2020 đạt 13,44% (tăng 2,14% so với nhiệm kỳ 2010-2015), cấp huyện 17,21% (tăng 1,54% ), cấp cơ sở: 21,48% (tăng 3,18%). Nhiều phụ nữ được nhận các danh hiệu và giải thưởng cao quí ở trong và ngoài nước.

Nhận thức được việc phát triển nguồn nhân lực nữ vừa là mục tiêu, vừa là công cụ để đạt được bình đẳng giới, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã có nhiều chương trình hoạt động phát huy vai trò, sự tham gia và đóng góp của phụ nữ vào sự phát triển của gia đình, xã hội và đất nước, tạo cơ hội để phụ nữ nâng cao quyền năng, vị thế của mình. Hội đã tham mưu đề xuất, tham gia giám sát, phản biện xã hội một số chính sách pháp luật, xây dựng một số đề án như Đề án hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm, cấp Báo Phụ nữ cho các xã vùng sâu vùng xa, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội, giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt, giáo dục phẩm chất đạo đức cho phụ nữ... được Thủ tướng phê duyệt. Đặc biệt Hội đã thực hiện Đề tài nghiên cứu khoa học độc lập cấp Nhà nước “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách phát triển nguồn nhân lực nữ trong giai đoạn 2011 – 2020”.

Kết quả nghiên cứu và thực tiễn hiện nay cho thấy, một số vấn đề liên quan đến nguồn nhân lực nữ nước ta rất đáng được suy nghĩ:

1- Về thể lực, lực lượng lao động ở nước ta do thu nhập thấp, cuộc sống khó khăn, khẩu phần ăn hàng ngày của công nhân đang dưới chuẩn năng lượng tối thiểu để làm việc của người trưởng thành. Trong đó, khẩu phần ăn của công nhân nữ chỉ đáp ứng 64,6% năng lượng tối thiểu. Khoảng 30% công nhân suy dinh dưỡng, sức khỏe yếu; 24,5% nữ công nhân thiếu máu. Theo một số nghiên cứu: chiều cao trung bình của phụ nữ đạt 153 cm, thấp hơn 10,7cm so với chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới. Có 58% phụ nữ đã từng là nạn nhân của ít nhất một hình thức bạo lực gia đình. Việt Nam là một trong 5 quốc gia có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, trong đó có nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên

2- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, theo số liệu thống kê, chỉ có 6,1% lao động nữ có trình độ đại học trở lên; 4,1% có trình độ trung cấp chuyên nghiệp; 5,6% trình độ sơ cấp nghề; 12,7% trung cấp nghề. Có đến 84,6% lao động nữ không có trình độ chuyên môn kỹ thuật; 60,7% chưa qua đào tạo nghề; 67,3% không biết bất cứ một ngoại ngữ nào; 66,9% không sử dụng được tin học văn phòng. Tỷ lệ nữ có trình độ trung học phổ thông thấp hơn nam giới.

3- Một số phẩm chất cần thiết của người lao động như tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, sự say mê, sẵn sàng tham gia lao động của phụ nữ Việt Nam được đánh giá cao nhưng tính độc lập tự chủ, sự tự tin, khả năng tự học, tự vươn lên, khả năng thích ứng với những thay đổi trong công việc, các kỹ năng bổ trợ (như kỹ năng hợp tác với người khác, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin…) của lao động nữ còn hạn chế. Đời sống văn hóa, tinh thần của một bộ phận lao động nữ còn khó khăn.

Những tồn tại, hạn chế trên đây do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau trong đó có nguyên nhân từ việc xây dựng, triển khai, tổ chức thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực nữ. Cho đến nay, vẫn chưa có chính sách quốc gia về phát triển nguồn nhân lực nữ. Trong Chiến lược nhân lực Việt Nam, Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 cũng như trong qui hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của nhiều ngành, địa phương mới chỉ đề cập theo vùng miền, ngành nghề, lĩnh vực mà chưa có qui định mang tính đặc thù dành riêng cho phụ nữ hay nguồn nhân lực nữ.

Chúng ta đều biết, nguồn nhân lực được coi là một nguồn vốn xã hội và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá của Đảng ta. Với 50,7% dân số, 48,47% lực lượng lao động xã hội, phụ nữ đóng góp tích cực trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ là nội dung không thể thiếu trong thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, là nền tảng tiến tới bình đẳng giới, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội; đồng thời góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam. Mặt khác, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ gắn liền với vai trò làm mẹ, với việc chăm sóc, bảo vệ bà mẹ, trẻ em, nâng cao chất lượng dân số, góp phần thực hiện bình đẳng giới, xây dựng gia đình trở thành tế bào lành mạnh của xã hội, tái tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, là tiền đề quan trọng để có những thế hệ người Việt Nam khỏe mạnh, có phẩm chất, năng lực trong tương lai. Yêu cầu đó đòi hỏi cần có những chính sách, chương trình đặc thù đối với nguồn nhân lực nữ.

Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định “nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật pháp chính sách đối với lao động nữ…”. Trong bối cảnh cộng đồng kinh tế ASEAN vừa được hình thành, Việt Nam đã tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình dương TPP, Liên Hợp quốc đã thông qua mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, từ thực tiễn đất nước, tiềm năng của phụ nữ và những vấn đề đặt ra nêu trên, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam chỉ có một mong muốn: trân trọng đề nghị Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển nguồn nhân lực nữ Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với các nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và từng gia đình về sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến sâu rộng tới mọi tầng lớp nhân dân chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực; về vị trí, vai trò nguồn nhân lực nữ. Xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, của mỗi gia đình trong công tác phát triển nguồn nhân lực nói chung, nhân lực nữ nói riêng; phát huy vai trò, tiềm năng của phụ nữ; nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực; đồng thời chăm lo, quan tâm, tạo điều kiện để phụ nữ phát triển.

Phát huy kết quả đạt được của nhiệm kỳ này, trong công tác cán bộ nữ, Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo theo tinh thần Di chúc của Bác: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”

Thứ hai, trên cơ sở nhận thức đúng và toàn diện về nguồn nhân lực nữ, Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm xây dựng, tổ chức thực hiện hệ thống luật pháp, chính sách tạo điều kiện và cơ hội cho phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình như quy định tại Điều 26 Hiến pháp, đó là chính sách hỗ trợ phụ nữ trong đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề có chứng chỉ. Các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách khởi nghiệp; chính sách thai sản cho phụ nữ không có bảo hiểm xã hội bắt buộc; tổ chức nhà trẻ trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Quan tâm xây dựng và thực hiện chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện đối với các nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, phụ nữ cao tuổi, phụ nữ đơn thân, phụ nữ tàn tật có hoàn cảnh khó khăn. Chính sách chuyển tiếp học sau đại học đối với nữ sinh viên giỏi, sửa đổi chính sách phong học hàm nghệ sĩ, thày thuốc phù hợp. Nâng cao thể lực, sức khỏe người Việt trong đó có nhân lực nữ là yêu cầu cấp bách, vì vậy, cần quan tâm tổ chức triển khai thực hiện Quyết định số 641/ngày 28/4/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030 (Đề án này đã được phê duyệt cách đây gần 5 năm).

Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, hiện nay lao động nữ được nghỉ hưu trước 5 tuổi so với lao động nam. Đây cũng là một chính sách thể hiện sự ưu việt của chế độ. Tuy nhiên, để phát huy nguồn nhân lực nữ chất lượng cao, đề nghị TW Đảng xem xét, có quy định phù hợp, cụ thể hóa Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, Bộ Luật lao động, Luật Bình đẳng giới.

Thứ ba, Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm công tác xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc- nơi lưu truyền giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp. Gia đình, phụ nữ và trẻ em có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự ổn định, phát triển của xã hội, đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ. Gia đình là nơi trực tiếp đảm bảo dinh dưỡng, phát triển toàn diện cho trẻ em, phát triển kinh tế, phòng chống bao lực gia đình, chăm lo bà mẹ mang thai, giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên...

Tại Kết luận số 26 – TB/TW của Ban Bí thư ngày 9/5/2011 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị 49-CT/TW, Ban Bí thư giao nhiệm vụ cho Đảng đoàn Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam Chủ trì phối hợp với các cơ quan có liên quan nghiên cứu việc thành lập, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về công tác phụ nữ, gia đình và trẻ em phù hợp với tình hình đất nước”. Thực hiện nhiệm vụ trên, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã triển khai đề tài nghiên cứu và đãtrình Ban Bí thư Đề án với phương án đề xuất thành lập Bộ gia đình, phụ nữ và trẻ em.Trong bối cảnh chúng ta đang đẩy mạnh yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; tăng cường quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, đối tượng; bên cạnh đoàn thể Hội LHPN Việt Nam thì một cơ quan quản lý nhà nước là cần thiết để giúp Chính phủ trong quản lý các vấn đề phụ nữ, gia đình, trẻ em.

Hội LHPN Việt Nam đề nghị được Đảng, Nhà nước tạo điều kiện để phát huy vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động phụ nữ, thực hiện nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội. Thông qua việc thực hiện các Đề án, các cơ chế cụ thể để Hội tham gia nhiều hơn trong các chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ.

Về trách nhiệm của mình sau Đại hội, Hội LHPN Việt Nam sẽ phối hợp tuyên truyền và xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Hội tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động, phát triển tổ chức để Hội thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ, đại diện bảo vệ, chăm lo cho phụ nữ. Thực hiện tốt phong trào thi đua “phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và cuộc vận động xây dựng gia đình 5 không 3 sạch góp phần xây dựng nông thôn mới, cuộc vận động rèn luyện 4 phẩm chất tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang; phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế. Thông qua việc rèn luyện 4 phẩm chất đạo đức, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, tạo điều kiện để người phụ nữ thực hiện vai trò người mẹ, người thày đầu tiên của con người theo tinh thần Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về “công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, xứng đáng với lời khen ngợi của Bác Hồ “non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ Việt nam ta trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ”.

Kính chúc các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc, thắng lợi. Chúc Đại hội Đảng lần thứ XII thành công thật tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn.

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video