Tình hình phụ nữ Việt Nam và một số vấn đề đặt ra đối với công tác bình đẳng giới trong bối cảnh mới

11/09/2025
Các nghiên cứu về phụ nữ Việt Nam đã làm nổi bật những tiến bộ đáng kể trong việc nâng cao vị thế và quyền của phụ nữ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị. Tuy nhiên, phụ nữ vẫn phải đối mặt với những thách thức dai dẳng liên quan đến bất bình đẳng giới như: phân công lao động trong gia đình, phân công lao động trong thị trường, sự tham gia các hoạt động ngoài xã hội.
Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Minh Hương (bìa phải) và bà Caroline Nyamayemombe (bìa trái), Trưởng Đại diện UN Women Việt Nam, tặng hoa cho các diễn giả tại Diễn đàn liên thế hệ "Phụ nữ và Bình đẳng giới trong kỷ nguyên mới"

Tóm tắt

Các nghiên cứu về phụ nữ Việt Nam đã làm nổi bật những tiến bộ đáng kể trong việc nâng cao vị thế và quyền của phụ nữ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị. Tuy nhiên, phụ nữ vẫn phải đối mặt với những thách thức dai dẳng liên quan đến bất bình đẳng giới như: phân công lao động trong gia đình, phân công lao động trong thị trường, sự tham gia các hoạt động ngoài xã hội. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để có cái nhìn toàn diện về tình hình bình đẳng giới ở Việt Nam. Dữ liệu được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy như: báo cáo Chính phủ, các sách chuyên khảo, các nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu sẽ góp phần vào việc thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam, đề xuất các giải pháp cụ thể để giải quyết các thách thức còn tồn tại và tạo ra một xã hội công bằng và phát triển bền vững cho tất cả mọi người.

Từ khoá: Bình đẳng giới; quyền năng kinh tế; phụ nữ, tài chính, phân công lao động.

1. Đặt vấn đề

Kết quả Điều tra Dân số và Nhà ở ngày 1/4/2019 cho thấy, tổng dân số Việt Nam là 96.208.984 người trong đó phụ nữ chiếm 50,2%; 85,3% phụ nữ thuộc dân tộc Kinh, 14,7% phụ nữ thuộc các dân tộc thiểu số. Dân số Việt Nam đang ở giai đoạn dân số vàng về lực lượng lao động; số lượng người dân trong độ tuổi lao động là đông nhất ở cả nam và nữ giới (68% dân số trong độ tuổi 15 - 64). Tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động là 47,3% so với nam giới. Tại thành thị và nông thôn có mức độ phân phối lao động nữ chênh lệch không đáng kể. Tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động có trình độ học vấn tốt nghiệp THPT trở lên là 36,7%; tốt nghiệp THCS là 29,1%; tốt nghiệp Tiểu học là 22,1%; có 12,1% phụ nữ chưa đi học và chưa tốt nghiệp Tiểu học. Phụ nữ có khả năng di cư luôn cao hơn so với nam giới trong các phạm vi khác nhau: di cư trong huyện (59,3%); di cư giữa các huyện (56,5%); di cư giữa các tỉnh (51,8%). Tỷ trọng nữ tại thành thị và nông thôn tương đối giống nhau và đều chiếm khoảng 47% trong lực lượng lao động tại địa phương. Các ngành giáo dục và đào tạo, y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, dịch vụ lưu trú và ăn uống, hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình có tỷ lệ nữ giới tham gia nhiều hơn, chiếm tỷ trọng trên 60% (Tổng cục Thống kê, 2019).

Cuộc sống của phụ nữ Việt Nam đã có nhiều thay đổi sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Người phụ nữ đã có nhiều cơ hội tham gia đóng góp và thụ hưởng trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, giáo dục, thể thao, v.v… Điều đáng quan tâm là sự tham gia và thụ hưởng của phụ nữ trong cuộc sống gia đình và xã hội không chỉ đóng góp vào ổn định hạnh phúc gia đình mà còn góp phần gia tăng sản xuất tăng trưởng kinh tế của gia đình và đất nước. Song, thực tế cũng phản ánh cuộc sống của phụ nữ Việt Nam vẫn còn không ít rào cản, bất cập liên quan đến chiều cạnh bình đẳng giới ở trong gia đình và ngoài xã hội, và đặt ra câu hỏi cần nghiên cứu trả lời. Dựa vào nguồn tài liệu thứ cấp, bài viết phân tích thành quả, hạn chế, rào cản của công tác phụ nữ liên quan đến cải thiện nâng cao bình đẳng giới và đề xuất hướng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phụ nữ ở Việt Nam trong bối cảnh mới.

2. Thực trạng phụ nữ tham gia các lĩnh vực và bình đẳng giới trong gia đình và xã hội

2.1. Phụ nữ trong hoạt động của đời sống gia đình

Nhìn chung, phụ nữ tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế: sản xuất, kinh doanh, mang lại thu nhập cho gia đình nhưng vẫn chưa khai thác hết dư địa đóng góp của phụ nữ vào phát triển kinh tế gia đình và tăng trưởng kinh tế của địa phương và đất nước. Kết quả dưới đây sẽ phản ánh rõ thực tế này.

- Phụ nữ trong hoạt động kinh tế: Chủ đề phụ nữ trong hoạt động kinh tế là đề tài thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu hơn hai thập kỷ qua. Kết quả phản ánh sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động kinh tế gia đình được các nghiên cứu phản ánh qua các công việc như sản xuất, buôn bán, kinh doanh, di cư lao động bên ngoài gia đình, v.v… mang lại nguồn thu nhập cho gia đình. Các dẫn chứng và phân tích dưới đây sẽ cho thấy sự tham gia các hoạt động kinh tế ở trong gia đình và bên ngoài xã hội của các nhóm phụ nữ đang gặp phải vấn đề gì.

Phụ nữ ở nông thôn tham gia vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp.

Bảng 1. Phân công công việc trong hoạt động nông nghiệp

Đơn vị: %

Công việc

Vợ

Chồng

 Cấy lúa

96,0

4,0

 Làm cỏ

93,7

6,3

 Cày bừa

14,5

85,5

 Gặt lúa

52,8

47,2

Phun thuốc

46,0

54,0

(Nguồn: Nghiên cứu vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên (Hoàng Thị Mỹ Hạnh, Lê Thị Anh, 2022).

Sự phân công lao động giữa nam và nữ giới trong hoạt động kinh tế nông nghiệp vẫn còn mang tính truyền thống, với phụ nữ đảm nhiệm phần lớn công việc nhà nông như “cấy lúa” (96,0%), trong khi nam giới chiếm ưu thế trong các công việc nặng nhọc hơn như “cày bừa” (85,5%). Trong các công việc “Gặt lúa” và “Phun thuốc” thì công việc có sự san sẻ tương đối đồng đều giữa nam và nữ giới. Các công việc nặng nhọc yêu cầu nhiều về thể lực thì nam giới vẫn có xu hướng đảm nhiệm hơn so với nữ giới. Phụ nữ vẫn phải gánh vác nhiều trách nhiệm trong hoạt động nông nghiệp, ảnh hưởng đến cơ hội tham gia các hoạt động kinh tế khác.

Bảng 2. Sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động kinh tế tạo thu nhập

Đơn vị: Điểm

Hoạt động kinh tế tạo thu nhập

Học vấn

THCS >THCS

Điểm

Điểm tham gia (IND)

Làm dịch vụ (may mặc, uốn tóc, hớt tóc, trang điểm, rửa xe, môi giới…)

51

90

141

31,97

Buôn bán nhỏ, lẻ (cà phê, xe rau quả, bán hủ tiếu, cháo, cơm, tạp hóa…)

69

65

134

30,39

Trồng cây ngắn ngày (Mía, đậu, lúa)

42

57

99

22,45

Làm thuê (lấy tiền công)

50

48

98

22,22

Rau xanh/hoa màu/củ quả

40

52

92

20,86

Mua bán nông sản theo mùa vụ

27

59

86

19,50

Làm việc khu vực công (nhà nước)

15

69

84

19,05

Nuôi gà/vịt

26

47

73

16,55

Làm việc sản xuất tiểu thủ công nghiệp (bánh tráng, kẹo, tàu hủ, chao)

24

27

51

11,56

Công nhân, nhân viên công ty (tư nhân)

9

42

51

11,56

Vận chuyển (xe ôm, chở mướn)

22

27

49

11,11

Nuôi heo

11

10

21

4,76

Nuôi Trâu, bò, dê

12

0

12

2,72

Nuôi trồng thủy sản (cá, ếch, …)

3

6

9

2,04

Nuôi ong mật

3

0

3

0,68

 

(Nguồn: Đóng góp của phụ nữ nông thôn vào phát triển kinh tế xã hội:  Điển cứu tại huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, Việt Nam (Nguyễn Hữu Dũng, 2021)

Bên cạnh tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp, phụ nữ nông thôn hiện nay đang ngày càng nỗ lực tìm kiếm thu nhập bên ngoài gia đình qua nhiều hoạt động kinh tế khác nhau: dịch vụ, buôn bán nhỏ lẻ, làm công nhân… Thu nhập của phụ nữ nông thôn từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh này, với mức thu nhập không cao nhưng cũng đóng góp quan trọng vào nguồn thu nhập của gia đình. Tuy nhiên, bất bình đẳng về thu nhập giữa nam và nữ vẫn là vấn đề cần sự quan tâm, đặc biệt là ở khu vực nông thôn.

Bảng 3. Tỷ lệ thất nghiệp theo giới tính, thành thị, nông thôn và vùng kinh tế - xã hội

Đơn vị: %

Tỉ lệ

thất nghiệp

Chung

Khu vực

Giới tính

Thành thị

Nông thôn

Nam

Nữ

2009

3,3

4,5

3,0

4,5

4,6

2019

2,42

3,39

2,12

2,07

2,87

(Nguồn: Phụ nữ di cư - những vấn đề xã hội cần quan tâm ở khu vực nông thôn đồng bằng sông Cửu Long (Quách Thị Hồng, Võ Thị Kim Hoàng, 2023)

Tỷ lệ thất nghiệp cao hơn ở phụ nữ là một chỉ báo rõ nét về những khó khăn mà phụ nữ gặp phải trong việc tìm kiếm và duy trì việc làm ổn định. Một phần xuất phát từ định kiến giới, trách nhiệm gia đình và sự thiếu hụt cơ hội tiếp cận giáo dục, đào tạo nghề và công nghệ thông tin. Điều 12 của Luật Bình đẳng giới quy định về bình đẳng trong tiếp cận thị trường lao động, nhưng những rào cản trên vẫn khiến phụ nữ khó có thể cạnh tranh bình đẳng với nam giới.

Phân công lao động truyền thống và bất bình đẳng thu nhập, đặc biệt ở nông thôn, khiến phụ nữ thường làm công việc ít thu nhập hơn nam giới. Điều 13, 14 và 32 của Luật Bình đẳng giới (2006) quy định về quyền bình đẳng trong lao động và cấm phân biệt đối xử, tuy nhiên, trên thực tế phân biệt đối xử vẫn tồn tại. Phụ nữ, đặc biệt là ở nông thôn, cũng khó tham gia vào những công việc tạo ra nhiều thu nhập do thiếu vốn, kiến thức và sự hỗ trợ, một phần do việc thực thi Điều 12 của Luật Bình đẳng giới chưa triệt để.

Nghiên cứu “Phụ nữ và công việc tại Việt Nam” của ILO năm 2021 đã chỉ ra việc phụ nữ vẫn tiếp tục mang gánh nặng kép không chỉ là hiện tượng giờ mới được biết đến ở Việt Nam mà còn được truyền thông khích lệ. Người Việt Nam có câu ngạn ngữ nhắc nhở phụ nữ phải “giỏi việc nước (tức là các việc ngoài gia đình), đảm việc nhà”.

- Phụ nữ trong hoạt động chăm sóc sức khỏe, giáo dục con cái:

Phụ nữ giữ vai trò chủ đạo trong các công việc nội trợ hàng ngày (86,85%), mua sắm, chi tiêu vặt (81,63%), mua lương thực, thực phẩm (81,18%) và chăm sóc con cháu, người thân (77,78%).

Bảng 4. Chỉ số tham gia một số hoạt động trong gia đình của phụ nữ

Các vấn đề quyết định

Học vấn

THCS >THCS

Điểm

Điểm tham gia (IND)

Công việc nội trợ hàng ngày

163

220

383

86,85

Mua sắm, chi tiêu vặt hàng ngày

134

226

360

81,63

Mua lương thực, thực phẩm để tiêu dùng

156

202

358

81,18

Chăm sóc con cháu, người thân

141

202

343

77,78

Sử dụng thu nhập còn dư để đầu tư vào việc gì (gửi ngân hàng, mua vàng, …)

 

94

152

246

55,78

Sử dụng thu nhập của mình để chi tiêu cho những nhu cầu riêng của bản thân

 

86

154

240

54,42

Dạy dỗ, chăm sóc con cháu học hành

104

135

239

54,20

Chi tiêu y tế gia đình

86

127

213

48,30

Chi tiêu giáo dục

83

118

201

45,58

Đầu tư công cụ sản xuất, kinh doanh

82

105

187

42,40

Mua sắm đồ dùng lâu bền

71

104

175

39,68

 

Ghi chú: Kết quả khảo sát 2020 (n = 147).

(Nguồn: Đóng góp của phụ nữ nông thôn vào phát triển kinh tế xã hội: Điển cứu tại huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, Việt Nam (Nguyễn Hữu Dũng, 2021)

Các bằng chứng nghiên cứu gần đây tiếp tục cho thấy phụ nữ đã thể hiện tiếng nói nhiều hơn trong các vấn đề hàng ngày nhưng họ vẫn chưa thực sự bình đẳng trong việc quyết định các công việc quan trọng. Điều này phản ánh định kiến giới vẫn tồn tại, và cho thấy thực tiễn vẫn còn khoảng cách so với Điều 18 và 33 của Luật Bình đẳng giới (2006). Hơn nữa, phụ nữ, đặc biệt ở nông thôn, thường khó tiếp cận thông tin và kiến thức về tài chính, kinh doanh, hạn chế khả năng tham gia quyết định quan trọng, cản trở việc thực hiện Điều 12 của Luật Bình đẳng Giới (2006) về quyền bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực kinh tế.

Phụ nữ có đóng góp quan trọng, vai trò chủ yếu/ phải gánh vác phần lớn trách nhiệm chăm sóc gia đình, bao gồm cả việc chăm sóc sức khỏe và giáo dục con cái và vẫn có ít thời gian cho học tập và tham gia hoạt động văn hóa, giải trí.

 

 

Bảng 5. Thời gian bình quân cho các việc trong ngày

Đơn vị: giờ

Các công việc trong ngày

Giới tính

Nữ giới

Nam giới

Công việc tạo thu nhập

8,0

7,8

Các hoạt động xã hội

0,6

1,0

Công việc nội trợ

3,0

2,5

Chăm sóc trẻ nhỏ/ dạy học/ chăm sóc người cao tuổi

2,2

2,7

Chăm sóc bản than

1,7

1,0

Xem tivi, đọc sách, thể thao

1,8

2,2

Các hoạt động tín ngưỡng

0,1

0,1

Nghỉ ngơi

6,6

6,7

(Nguồn: Vai trò và quyền quyết định của phụ nữ Kiên Giang trong gia đình thời kỳ mới (Hoàng Thị Mỹ Hạnh, Lê Thị Anh, 2022)

Sự phân công lao động và thời gian vẫn còn mang tính giới tính rõ rệt ở Việt Nam, đặc biệt là trong các lĩnh vực như công việc làm tạo thu nhập, hoạt động xã hội và công việc nội trợ. Phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số, có thể phải đối mặt với nhiều hạn chế hơn trong việc tham gia vào các hoạt động kinh tế và xã hội, đồng thời phải gánh vác phần lớn trách nhiệm chăm sóc gia đình.

Luật Bình đẳng giới 2006 khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Điều này được thể hiện rõ trong Điều 17 của Luật, quy định "Nam, nữ có quyền bình đẳng về chăm sóc sức khỏe". Luật nhấn mạnh trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình giữa các thành viên, bao gồm cả việc chăm sóc sức khỏe và giáo dục con cái. Điều 35 nêu rõ "Các thành viên trong gia đình có trách nhiệm cùng nhau chăm sóc sức khỏe, nuôi dạy con cái".

Nhưng trên thực tế, phụ nữ vẫn phải gánh vác phần lớn trách nhiệm chăm sóc gia đình, bao gồm cả việc chăm sóc sức khỏe và giáo dục con cái. Điều này tất yếu ảnh hưởng đến cơ hội học tập, phát triển sự nghiệp và tham gia các hoạt động xã hội của họ. Như vậy, định kiến giới vẫn tiếp tục hiện hữu trong đời sống xã hội, khiến phụ nữ gặp khó khăn trong việc cân bằng giữa công việc và gia đình. Nhiều người, thậm chí bản thân phụ nữ vẫn cho rằng việc chăm sóc gia đình là trách nhiệm chính của phụ nữ.

 

 

- Phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội

Bảng 6. Chỉ số tham gia các hoạt động xã hội của phụ nữ

Đơn vị: Điểm

Các vấn đề quyết định

Học vấn

THCS >THCS

Điểm

Điểm tham gia (IND)

Tham gia các hoạt động lễ nghĩa trong làng xóm (đám tiệc, lễ hội, họ hàng)

141

221

362

82,09

Chi tiêu giải trí, du lịch

69

116

185

41,95

 

Ghi chú: Kết quả khảo sát 2020 (n = 147). IND: Điểm tham gia

(Nguồn: Đóng góp của phụ nữ nông thôn vào phát triển kinh tế xã hội:  Điển cứu tại huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, Việt Nam (Nguyễn Hữu Dũng, 2021)

Tham gia các hoạt động lễ nghĩa trong làng xóm có chỉ số là 82,09; cho thấy đây là vấn đề rất quan trọng đối với người dân nói chung, không phân biệt học vấn hay địa bàn. Chi tiêu giải trí, du lịch có chỉ số là 41,95, thấp hơn đáng kể so với hoạt động lễ nghĩa.

Phụ nữ coi trọng các hoạt động lễ nghĩa trong làng xóm hơn chi tiêu giải trí, du lịch. Điều này có thể phản ánh các giá trị văn hóa truyền thống coi trọng cộng đồng và tình làng nghĩa xóm.

Bảng 7. Chỉ số tham gia các tổ chức xã hội

Đơn vị: Điểm

Tham gia đoàn thể, hội, nhóm tổ hoạt động xã hội

Học vấn

THCS >THCS

Điểm

Điểm tham gia (IND)

Hội Liên hiệp Phụ nữ

72

112

184

41,72

Nhóm/ tổ chức hoạt động từ thiện

47

69

116

26,30

Nhóm tương trợ xã hội

52

55

107

24,26

Tổ/ Nhóm tín dụng

43

64

107

24,26

Ban quản lý khu, tổ, ấp dân phố

28

30

58

13,15

Hội đồng hương

16

33

49

11,11

Các tổ chức/ nhóm/ hội khác

23

26

49

11,11

Tổ đoàn kết sản xuất

17

24

41

9,30

Hội nông dân

16

18

34

7,71

Nhóm kinh doanh

14

19

33

7,48

 

Ghi chú: Kết quả khảo sát 2020 (n = 147)

(Nguồn: Đóng góp của phụ nữ nông thôn vào phát triển kinh tế xã hội:  Điển cứu tại huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, Việt Nam (Nguyễn Hữu Dũng, 2021)

Hội Liên hiệp Phụ nữ có số lượng người tham gia đông nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất (IND = 41,72). Các nhóm hoạt động từ thiện và nhóm tương trợ xã hội cũng thu hút sự tham gia đáng kể của người dân. Các tổ chức khác như Ban quản lý khu, tổ, ấp dân phố, Hội đồng hương, và các tổ chức/nhóm/hội khác có mức độ tham gia thấp hơn.

Phụ nữ tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, đặc biệt là các hoạt động mang tính cộng đồng và hỗ trợ lẫn nhau như Hội Liên hiệp Phụ nữ, các nhóm từ thiện và tương trợ. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy sự tham gia vào các tổ chức kinh tế và chính trị còn hạn chế. Bên cạnh đó, phụ nữ cũng coi trọng các hoạt động lễ nghĩa truyền thống, thể hiện sự gắn kết với cộng đồng và giá trị văn hóa địa phương. Đây là các tín hiệu tích cực của việc thực hiện điều 6, 7, 11 trong Luật bình đẳng giới. Tuy nhiên, phụ nữ vẫn còn nhiều thách thức đặt ra trong quá trình nâng cao vị thế trong xã hội, sự tham gia vào các hoạt động, tổ chức xã hội. 

2.2. Phụ nữ tham gia các hoạt động bên ngoài xã hội

- Phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh song học vấn thấp, thu nhập thấp hơn nam giới. Hơn nữa, các lĩnh vực phụ nữ tham gia nhiều hơn ở bên ngoài xã hội nhưng chủ yếu khu vực kinh tế phi chính thức, nơi sử dụng lực lượng lao động học vấn thấp, thu nhập thấp, chưa đảm bảo tốt an sinh xã hội.

Bảng 8. Cơ cấu lao động theo trình độ học vấn cao nhất của lao động có việc làm phi chính thức và việc làm chính thức năm 2021

Đơn vị: %

 

Lao động có việc làm

phi chính thức

Lao động có việc làm chính thức

Nam

Nữ

Chung

Chung

I. Chưa qua đào tạo/ không có bằng/ chứng chỉ

82,20

90,70

86,00

42,35

1. Chưa bao giờ đi học

2,50

4,5

3,4

0,30

2. Chưa TN tiểu học

8,70

10,8

9,6

1,26

3. Tốt nghiệp tiểu học

23,90

26,9

25,20

7,21

4. Tốt nghiệp THCS

32,90

33,50

33,20

16,34

5. Tốt nghiệp THPT

14,30

15,00

14,60

17,24

II. Qua đào tạo có bằng/ chứng chỉ

17,80

9,30

14,00

57,65

6. Sơ cấp

9,70

2,00

6,30

8,29

7. Trung cấp

3,30

2,50

3,00

7,20

8. Cao đẳng

1,90

1,90

1,90

7,83

9. từ Đại học trở lên

2,90

3,00

2,90

34,33

Tổng

100,00

100,00

100,00

100,00

(Nguồn: Báo cáo Quốc gia Việt Nam số 6 năm 2023 (Phạm Quang Minh, Detlef Briesen, Nguyễn Thị Thùy Trang, 2023)

Nhìn chung, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức cao hơn đáng kể so với lao động có việc làm chính thức, chiếm 86% so với 14%. Điều này cho thấy thị trường lao động Việt Nam vẫn còn nhiều lao động chưa có việc làm ổn định và được bảo vệ đầy đủ.

Phần lớn lao động trong khu vực phi chính thức có trình độ học vấn thấp, với 86% chưa qua đào tạo hoặc chỉ tốt nghiệp THPT. Trong đó, nhóm "Chưa qua đào tạo/không có bằng/chứng chỉ" chiếm tỷ lệ áp đảo, lên tới 82.2% đối với nam và 90.7% đối với nữ.

Phụ nữ có tỷ lệ tham gia lao động phi chính thức cao hơn nam giới, đặc biệt là ở nhóm có trình độ học vấn thấp. Mặt khác, nam giới có tỷ lệ tham gia lao động chính thức cao hơn, đặc biệt là ở nhóm có trình độ đại học trở lên. Trình độ học vấn có vai trò quan trọng trong việc tiếp cận các cơ hội việc làm chính thức và ổn định. Tỷ lệ cao lao động phi chính thức và sự tập trung của lao động trình độ thấp trong khu vực này đặt ra thách thức về an sinh xã hội và phát triển bền vững.

Bảng 9. Thu nhập bình quân tháng của lao động có việc làm phi chính thức, chính thức và cả nước theo giới năm 2021

Đơn vị tính: Triệu đồng/ người/ tháng

 

Nam

Nữ

Tổng

Lao động có việc làm phi chính thức

5,76

3,53

4,75

Lao động có việc làm chính thức

8,58

7,01

7,74

Chung cả nước

6,40

4,55

5,52

(Nguồn: Báo cáo Quốc gia Việt Nam số 6 năm 2023 (Phạm Quang Minh, Detlef Briesen, Nguyễn Thị Thùy Trang, 2023)

Lao động nam có thu nhập bình quân cao hơn lao động nữ ở cả hai khu vực việc làm chính thức và phi chính thức. Trong khu vực phi chính thức, nam giới kiếm được 5,76 triệu đồng/tháng, trong khi nữ giới chỉ kiếm được 3,53 triệu đồng/tháng. Trong khu vực chính thức, sự chênh lệch này vẫn tồn tại, với nam giới kiếm được 8,58 triệu đồng/tháng so với 7,01 triệu đồng/tháng của nữ giới. Tỷ lệ chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ trong khu vực phi chính thức lớn hơn so với khu vực chính thức. Phụ nữ trong khu vực phi chính thức đặc biệt dễ bị tổn thương và có thể phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn trong việc đạt được thu nhập ổn định và công bằng.

Bảng 10. Cơ cấu lao động nữ có việc làm chia theo nghề nghiệp tại thành thị và nông thôn

Đơn vị: %

Nghề nghiệp

Thành thị

Nông thôn

Tổng

Nhà lãnh đạo

1,1

0,3

0,6

Chuyên môn kỹ thuật cao

18,5

4,7

9,3

Chuyên môn kỹ thuật bậc trung

6,1

2,8

3,9

Nhân viên

3,4

1,1

1,9

Dịch vụ cá nhân

34,6

17,6

23,2

Nghề trong nông lâm ngư nghiệp

1,7

7,1

5,3

Thợ thủ công và các thợ khác có liên quan

6,9

7,4

7,3

Thợ lắp rác và vận hành máy móc thiết bị

12,4

12,9

12,7

Nghề giản đơn

15,1

46,1

35,9

Khác

0,1

0,0

0,0

Tổng

100

100

100

(Nguồn: Báo cáo điều tra lao động, việc làm, 2022)

Phụ nữ thành thị có xu hướng tập trung vào các ngành nghề đòi hỏi trình độ học vấn và kỹ năng cao hơn như "Chuyên môn kỹ thuật cao" (18,5%) và "Dịch vụ cá nhân" (34,6%). Phụ nữ nông thôn chủ yếu làm các công việc trong "Nghề nông lâm ngư nghiệp" (70,1%) và "Nghề giản đơn" (46,1%). Một phần đáng kể phụ nữ thành thị vẫn làm các công việc "Nghề giản đơn" (15,1%).

Các rào cản mà phụ nữ phải đối mặt trong công việc, như quan niệm truyền thống, trách nhiệm gia đình, hạn chế tiếp cận giáo dục và đào tạo, khó khăn khi di cư lao động, đã tạo ra một bức tranh thực tế phức tạp về tình trạng việc làm của phụ nữ, đặc biệt khi đặt trong bối cảnh so sánh giữa phụ nữ thành thị và nông thôn. Điều 7 của Luật Bình đẳng giới 2006 quy định về quyền bình đẳng trong lao động, thực tế vẫn tồn tại tình trạng phân biệt đối xử về giới, đặc biệt là về lương. Điều này thể hiện rõ nét hơn ở phụ nữ nông thôn, những người thường phải làm các công việc giản đơn, thu nhập thấp và không ổn định. Bảng dữ liệu đã cho thấy rõ sự chênh lệch này, với tỷ lệ phụ nữ nông thôn làm "nghề giản đơn" cao gấp ba lần so với phụ nữ thành thị (46,1% so với 15,1%). Đây là một minh chứng cho thấy việc thực thi Điều 13 của Luật về quyền bình đẳng trong tiếp cận thị trường lao động vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Phụ nữ thành thị, tuy có nhiều cơ hội tiếp cận giáo dục và đào tạo hơn, nhưng cũng không tránh khỏi những rào cản vô hình. Họ thường phải đối mặt với định kiến giới trong công việc, bị đánh giá thấp về năng lực và khó thăng tiến lên các vị trí lãnh đạo.

- Hoạt động chính trị: vị thế và tiếng nói/quyền quyết định trong các quyết sách

Trong hơn nửa thế kỷ qua, số lượng đại biểu là nữ giới tham gia hoạt động lãnh đạo, quản lý tại Quốc hội gia tăng và tăng mạnh trong những năm gần đây. Nhưng con số này cho thấy vẫn còn một khoảng cách đáng kể so với tỷ lệ đại biểu nam giới trong các vị trí chủ chốt.

 

 

Bảng 11. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội qua các nhiệm kỳ

Khóa

Nữ đại biểu

Tổng số đại biểu

Tỷ lệ nữ (%)

Khóa III (1964 - 1971)

62

366

16,94

Khóa IV (1971 - 1975)

125

420

29,76

Khóa V (1975 - 1976)

137

424

32,31

Khóa VI (1976 - 1981)

132

492

26,83

Khóa VII (1981 - 1987)

108

496

21,77

Khóa VIII (1987 - 1992)

88

496

17,74

Khóa IX (1992 - 1997)

73

395

18,48

Khóa X (1997 - 2002)

118

450

26,22

Khóa XI (2002 - 2007)

136

498

27,31

Khóa XII (2007 - 2011)

127

493

25,76

Khóa XIII (2011 - 2016)

122

500

24,40

Khóa XIV (2016 - 2021)

133

496

26,80

(Nguồn: Định kiến về giới với vấn đề phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay (Phạm Thị Hằng, 2020)

Số lượng đại biểu là nữ giới tham gia hoạt động lãnh đạo, quản lý tại Quốc hội gần như được duy trì từ 24% đến 27% trong những năm gần đây. Qua các thời kì có sự gia tăng đáng kể về số lượng đại biểu nữ nhưng con số này cho thấy vẫn còn một khoảng cách đáng kể so với tỷ lệ đại biểu nam giới trong các vị trí chủ chốt. Đây là một tín hiệu tích cực cho việc hình thành nền tảng vững chắc cho công cuộc bình đẳng giới hiện nay.

Bảng 12. Tỷ lệ nữ trong hội đồng nhân dân các cấp

Đơn vị: %

Nhiệm kỳ

1994 -2004

2004 -2011

2011 -2016

Cấp tỉnh

22,33

23,80

25,70

Cấp huyện

20,12

22,94

24,62

Cấp xã

16,10

19,53

27,71

(Nguồn: Định kiến về giới với vấn đề phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay (Phạm Thị Hằng, 2020)

Ở các cấp hội đồng nhân dân tại các tỉnh, thành phố, tỷ lệ nữ giới cũng được duy trì với tỷ lệ gần giống với tỷ lệ nữ giới trong đại biểu Quốc hội. Từ đây có thể thấy sự thống nhất giữa các cấp ban ngành về việc tỷ lệ nữ giới tham gia công tác lãnh đạo, quản lý từ cấp địa phương đến trung ương.

Các rào cản chính đối với phụ nữ trong hoạt động chính trị bao gồm: quan niệm truyền thống, thiếu tự tin, trách nhiệm gia đình và hạn chế tiếp cận cơ hội đào tạo. Những thách thức này cho thấy việc thực hiện Điều 11 và 19 của Luật Bình đẳng giới về quyền bình đẳng trong lĩnh vực chính trị vẫn còn hạn chế. Để đạt được bình đẳng thực sự, cần thay đổi nhận thức xã hội, xóa bỏ định kiến giới và có các chính sách hỗ trợ cụ thể hơn cho phụ nữ.

3. Bàn luận và hàm ý chính sách nhằm giải quyết những khó khăn, thách thức, tăng cường/thúc đẩy hơn nữa công tác phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam trong thời gian tới

Chính phủ đã kết hợp cùng các cơ quan ban ngành để đưa lồng ghép vấn đề về giới trong các chính sách, quy định đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ như: Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình, chương trình phòng chống mua bán người, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, chương trình hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, quy định về bảo hiểm xã hội bắt buộc với lao động nữ … nhưng thực tế vẫn có nhiều vấn đề trong quá trình thực hiện. Một số nguyên nhân dẫn đến những thách thức và nguy cơ đối với việc thực hiện bình đẳng giới bao gồm:

Định kiến giới vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi, khiến lao động cuộc sống của phụ nữ ở tại địa phương hay cho du di cư ra khỏi cộng đồng vốn tồn tại định kiến mạnh mẽ nhưng họ vẫn phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và bất bình đẳng trong cơ hội việc làm, điều kiện làm việc và thu nhập ở các môi trường làm việc bên ngoài xã hội.

Phụ nữ vẫn phải đảm nhận phần lớn công việc nội trợ và chăm sóc gia đình, ngay cả khi họ đã tham gia vào thị trường lao động. Điều này vẫn tiếp tục tạo ra "gánh nặng kép" cho phụ nữ, ảnh hưởng đến sức khỏe, thời gian và năng lượng của họ, hạn chế cơ hội phát triển sự nghiệp và tham gia các hoạt động xã hội.

Lao động di cư nữ thường thiếu thông tin chính xác về cơ hội việc làm, điều kiện làm việc, quyền lợi và nghĩa vụ tại nước sở tại. Điều này khiến họ dễ rơi vào các tình huống bất lợi, bị lừa đảo, bóc lột và lạm dụng trong quá trình tham gia vào các hoạt động mưu sinh bên ngoài xã hội.

Trình độ học vấn thấp, đặc biệt là ở phụ nữ nông thôn và phụ nữ dân tộc thiểu số, là một rào cản lớn đối với sự phát triển của họ. Thiếu kỹ năng và kiến thức chuyên môn hạn chế khả năng tiếp cận việc làm tốt, thu nhập cao và cơ hội thăng tiến của phụ nữ. Ngoài ra, sự phân bổ không đồng đều giữa các ngành học theo giới tính cũng cho thấy định kiến giới vẫn còn ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn ngành học và nghề nghiệp của phụ nữ.

Trong nhiều trường hợp, lao động di cư nữ phụ thuộc rất nhiều vào người sử dụng lao động, đặc biệt là trong các ngành nghề như giúp việc gia đình, chăm sóc sức khỏe, giải trí... Điều này khiến họ dễ bị bóc lột, lạm dụng và khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình.

Thực tế phản ánh phụ nữ Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức phức tạp, đan xen giữa những thành tựu đã đạt được và những bất bình đẳng dai dẳng. Nghèo đói, biến đổi khí hậu, cách mạng 4.0, biến đổi chức năng gia đình, già hóa dân số, lừa đảo trực tuyến, bạo lực gia đình, mua bán người - tất cả đều tác động không nhỏ đến cuộc sống, sức khỏe, tinh thần và cơ hội phát triển của phụ nữ. Để có thể giải quyết những khó khăn, thách thức đối với phụ nữ, cần có một số giải pháp cụ thể trên các khía cạnh như sau:

Đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng hơn nữa về các khía cạch liên quan đến thực thi Luật Bình đẳng giới, đặc biệt là tuyên truyền có trọng tâm, trọng điểm đến các khu vực, địa bàn và nhóm xã hội đang tồn tại định kiến xã hội liên quan đến bình đẳng giới. Tiếp tục lồng ghép phù hợp các hoạt động tuyên truyền nâng cao bình đẳng trong các hoạt động của đời sống xã hội, đặc biệt là giáo dục ở các cấp học phổ thông hiện nay.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách liên quan đến bình đẳng giới. Rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bình đẳng giới, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và khả thi. Xây dựng và triển khai các chính sách hỗ trợ phụ nữ tiếp cận giáo dục, đào tạo nghề, vốn, tín dụng, công nghệ và thông tin thị trường. Đẩy mạnh thực thi pháp luật về bình đẳng giới, xử lý nghiêm các hành vi phân biệt đối xử và bạo lực giới.

Các tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao năng lực và vị thế của phụ nữ. Đầu tư vào giáo dục và đào tạo cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo, phụ nữ nông thôn và phụ nữ dân tộc thiểu số. Tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tiếp cận các cơ hội việc làm, thăng tiến và phát triển sự nghiệp. Thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo và quản lý ở mọi cấp nhằm gia tăng tham chính và đóng góp của phụ nữ đối với phát triển gia đình và tăng trưởng kinh tế địa phương.

Bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ. Tăng cường các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, xâm hại tình dục và mua bán phụ nữ, trẻ em. Xây dựng hệ thống hỗ trợ toàn diện cho phụ nữ bị bạo lực và nạn nhân của mua bán người. Bảo đảm an sinh xã hội cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo, phụ nữ cao tuổi và phụ nữ khuyết tật.

Tăng cường vai trò của các tổ chức Hội Phụ nữ. Nâng cao năng lực hoạt động của các cấp Hội Phụ nữ, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đẩy mạnh công tác vận động, tập hợp và hỗ trợ phụ nữ phát triển. Chủ động tham gia xây dựng và giám sát việc thực thi các chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.

Nguyễn Đức Chiện - PGS.TS. Phó Viện trưởng Viện Xã hội học, Tổng biên tập Tạp chí Xã hội học Việt Nam

Nguyễn Duy Thái - ThS. Cộng tác viên Tạp chí Xã hội học Việt Nam

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chính phủ. (2008). Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 4 tháng 6 năm 2008 quy định chi tiết thi hành một số điều luật bình đẳng giới.

Chính phủ. (2009). Nghị định 48/2009/NĐ-CP về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới.

Chính phủ. (2012). Nghị định 56/2012/NĐ-CP quy định trách nhiệm của bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.

Chính phủ. (2015). Nghị định 39/2015/NĐ-CP quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số.

Đại học Lao động Xã hội. (2023). Kỷ yếu hội thảo khoa học bình đẳng giới trong giáo dục. Nxb Tài Chính. 246 tr.

Hà Thị Thúy, Trần Thị Diệu Nga, Lê Kim Anh. (2022). Phụ nữ di cư trong lĩnh vực kinh tế - lao động - việc làm. Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, Quyển 32, Số 1. tr. 94 - 103.

Hoàng Thị Mỹ Hạnh, Lê Thị Anh. (2022). Vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên. Tạp chí Khoa học Đại học Tân Trào, Tập 08, Số 01. tr. 117 - 123.

Lâm Lệ Hà, Thái Thị Duy Ngân. (2020). Vai trò và quyền quyết định của phụ nữ Kiên Giang trong gia đình thời kỳ mới. Tạp chí Khoa học Học viện Phụ nữ Việt Nam. Quyển 10 số 2, tr. 48 - 59.

Lê Như Thịnh và cộng sự (2020). Nghiên cứu vai trò và sự tham gia của phụ nữ trong sản xuất hoa tại huyện Mộc Châu và Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, 9(118). tr. 110 – 114.

Nguyễn Hữu Dũng (2021). Đóng góp của phụ nữ nông thôn vào phát triển kinh tế xã hội: Điển cứu tại huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(05). tr. 5 - 18.

Nguyễn Hữu Dũng. (2021). Đóng góp của phụ nữ nông thôn vào phát triển kinh tế xã hội: Điển cứu tại huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(05), tr. 5 - 18.

Phạm Quang Minh, Detlef Briesen, Nguyễn Thị Thùy Trang (chủ biên). (2023). Báo cáo Quốc gia Việt Nam số 6 năm 2023 về Thị trường lao động ở Việt Nam. Nxb Thanh niên.

Phạm Thị Hằng (2020). Thúc đẩy quyền tham chính của phụ nữ trong giai đoạn hiện nay. Tạp chí Khoa học Học viện Phụ nữ Việt Nam, Quyển 9, Số 01. tr. 42 - 50.

Quách Thị Hồng, Võ Thị Kim Hoàng. (2023). Phụ nữ di cư - Những vấn đề xã hội cần quan tâm ở khu vực nông thôn đồng bằng sông Cửu long, Tạp chí Khoa học Đại học Trà Vinh, Tập 13, Số 1, tr. 10 - 22.

Quốc hội nước Cộng hoà  xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (2006). Luật Bình đẳng giới. Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 39tr.

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). (2021). Báo cáo tóm tắt nghiên cứu giới và thị trường lao động Việt Nam, truy cập 11h00 ngày 12/09/2024. Nguồn: https://www.ilo.org/sites/default/files/wcmsp5/groups/public/@asia/@ro-bangkok/@ilo-hanoi/documents/publication/wcms_774433.pdf.

Tổng cục Thống kê (2019). Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019. Nxb Thống kê.

Tổng cục Thống kê. (2021). Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2020, Nxb Thống kê, 216tr.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Công tác phụ nữ và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam nhiệm kỳ 2022-2027: cơ hội và thách thức” tháng 10/2024.

Video