Phụ lục một số câu nói của Bác Hồ về phụ nữ và một số câu chuyện của Bác với phụ nữ Việt Nam

12/09/2018
Một số câu nói của Bác Hồ về phụ nữ:

1.Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ

2. Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa. 

 ... Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh.

Bài nói tại Hội nghị cán bộ thảo luận Luật Hôn nhân và gia đình ngày 10-10-1959

 

 Ảnh minh họa

 Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nữ đại biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 9 năm 1960. (Ảnh tư liệu)

 

3. ...Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng, Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội...

Bài nói chuyện tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IIIngày 9-3-1961

 Ảnh minh họa

 Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ các dân tộc Việt Bắc năm 1959. (Ảnh tư liệu)


4. Phụ nữ cũng là người chủ nước nhà. Để xứng đáng là người chủ thì chị em phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm... 

5. Phụ nữ cần phải xung phong trong việc xây dựng đời sống mới. Ở miền núi đang còn những phong tục không tốt do bọn phong kiến để lại, như: ma chay, cúng bái rất tốn kém. Cưới vợ, gả chồng quá sớm. Vệ sinh phòng bệnh, v.v... còn kém. Đó là những mê tín và hủ tục nên xóa bỏ, để xây dựng mỹ tục thuần phong.

6. Đoàn kết là sức mạnh. Đồng bào miền núi, trước hết là chị em phụ nữ, cần phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đoàn kết giữa dân tộc mình, đoàn kết giữa các dân tộc. Đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi... 

7. Để làm tốt những việc nói trên, chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học được...

Nói chuyện Hội nghị cán bộ phụ nữ miền núi, ngày 19-3-1964

8. Phụ nữ ta còn có một số nhược điểm như bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình; mặt khác, phụ nữ cũng gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái. Muốn giải quyết khó khăn không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền…

Nói chuyện tại Hội nghị các đại biểu phụ nữ tham gia công tác chính quyền toàn miền Bắc ngày 1-8-1960

9. Phụ nữ phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu; phải xoá bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí khí tự cường, tự lập. Có như thế phong trào “Năm tốt” sẽ ngày càng lan rộng, ăn sâu và sẽ thực hiện 100% bình quyền, bình đẳng

Phát biểu tại Đại hội liên hoan Phụ nữ “năm tốt” (ngày 30/4/1964)

10. …Nhiều người lầm tưởng đó là một việc dễ, chỉ: Hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát, thế là bình đẳng bình quyền. Lầm to!

Đó là một cuộc cách mạng khá to và khó.

Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội....

Vũ lực của cuộc cách mạng này là sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật. Phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công.

Bài viết "Nam nữ bình quyền"  năm 1952

11. Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất nước, tức là phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó, phụ nữ ta phải xoá bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại; phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật

Phát biểu tại tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III, tháng 3/1961

12. Phụ nữ Việt Nam ta sẵn có truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù. Trong kháng chiến, phụ nữ ta từ Bắc đến Nam đều hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước” (…) Phụ nữ ta cần phải cố gắng nhiều để theo kịp chị em các nước bạn, góp phần nhiều hơn nữa trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thư gửi phụ nữ toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Quốc tế Phụ nữ

13.“Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”…

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

14.“Xây dựng về tư tưởng, về chính trị, về tổ chức, đó là đường lối xây dựng Đảng. Đó không những là công việc của Đảng và của đảng viên mà cũng là của toàn dân... Đảng viên thì phải dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh

 

MỘT SỐ CÂU CHUYỆN VỀ BÁC HỒ VỚI PHỤ NỮ

 

 Ảnh minh họa

Không có chỗ cho “Bác gái” đứng à?

Ngày 26 tháng 12 năm 1956, Bác Hồ đã tiếp hơn 300 đại biểu phụ nữ Thủ đô tại Phủ Chủ tịch. Họ là những phụ nữ ưu tú, gồm đủ các thành phần: Công nhân, nông dân, trí thức, tiểu thương, học sinh, các tôn giáo, phụ nữ miền Nam tập kết ra Bắc và các gia đình có công với cách mạng. Được đi gặp Bác, ai cũng tươi cười hớn hở, diện những bộ quần áo đẹp nhất.

Sau khi nói chuyện và căn dặn các đại biểu phụ nữ, Bác vui vẻ chỉ vào những đĩa bánh, những đĩa kẹo bày trên bàn và bảo:

– Các cô ăn bánh, ăn kẹo đi. Cô nào có cháu bé thì mang về cho cháu; có chồng thì mang về cho chồng; có người yêu thì mang về cho người yêu, nói là quà của Bác Hồ.

Được lời của Bác, mọi người phấn khởi chia nhau bánh, kẹo.

- Nào bây giờ Bác cháu ta ra chụp ảnh.

Mọi người cùng kéo cả ra thềm Phủ Chủ tịch. Chị nào, cô nào cũng muốn được đến gần Bác để chụp ảnh. Bác bảo:

– Ai cũng muốn đứng gần Bác cả thì không có chỗ cho “bác gái” đứng à?

Mọi người còn chưa hiểu “bác gái” nào Bác đã kéo bác sĩ Trần Duy Hưng, Chủ tịch thành phố Hà Nội lại bảo: “Bác gái đây!”.

Tất cả mọi người cười vui vẻ. Bác nói tiếp:

– Bây giờ những cô nào đứng phía trước thì ngồi xuống, để những người đứng phía sau được rõ mặt hơn.

Mọi người răm rắp vâng theo lời Bác.

Nhà nhiếp ảnh bấm liền mấy “pô” ảnh. Ai cũng nghĩ: Chụp ảnh xong sẽ được chào Bác ra về. Nhưng đến khi quay lại, Bác đã không đứng đó nữa làm mọi người vô cùng luyến tiếc.

Các chú ấy nói có đúng không?

 Ảnh minh họa

 Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh với các cán bộ cơ quan TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ở Việt Bắc, tháng 2/1949

Chủ nhật trước ngày 2 tháng 9 năm 1958, một số chị em trong cơ quan Thành hội Phụ nữ đã đi phố sắm sửa cho ngày lễ. Nhưng khu tập thể vẫn đông vui vì hôm đấy không chỉ có các ông chồng về chơi, mà nhiều chị em còn đón cả bố mẹ ở quê ra dự ngày hội lớn ở Thủ đô. Mọi người không ngờ đã được Bác Hồ đến thăm. Xe vừa đỗ, Bác nhanh nhẹn bước xuống. Các chị trong cơ quan mừng quá, ùa ra đón, mời Bác vào phòng khách, nhưng Bác không vào mà nói:

– Không, Bác chưa vào phòng khách. Các cô cứ để Bác đi xem các cô ăn ở thế nào đã.

Bác đi qua sân, qua dãy nhà tập thể xuống thẳng bếp, hỏi thăm việc nấu nướng và khen ngợi chị em cấp dưỡng giữ gìn bếp núc sạch sẽ. Đến thăm nhà trẻ nhưng là ngày nghỉ, các cháu ở nhà, Bác nhìn qua cửa thấy nhà trẻ sạch bong, Bác gật đầu tỏ ý hài lòng. Bác thấy ngoài sân có một số cán bộ nam giới, Bác hỏi anh em:

– Cơ quan phụ nữ sao lại có các chú ở đây?

– Thưa Bác, hôm nay là Chủ nhật, chúng cháu về thăm gia đình ạ!

Bác hỏi lại:

– Các chú chỉ về thăm thôi à? Các chú về phải giúp đỡ các cô ấy việc gì chứ!

– Thưa Bác, chúng cháu có giặt giũ, bế con, dọn dẹp nhà cửa đấy ạ!

Bác quay lại hỏi các chị em:

- Thế nào, các chú ấy nói có đúng không?

– Thưa Bác, đúng ạ!

Tất cả vui vẻ cười rộ lên sung sướng theo cái gật đầu, bằng lòng của Bác. Lúc ấy Bác mới đi vào phòng khách và hỏi thăm sức khỏe, tuổi tác của mấy cụ già, rồi căn dặn các chị em làm việc tốt, riêng với các cô giữ trẻ, Bác nhắc nhở:

– Các cháu là mầm non của Tổ quốc, là tương lai của xã hội, các cô phải trông nom dạy dỗ các cháu cho chu đáo.

 

Bác đến thăm và nói chuyện với Đại hội Ba đảm đang của phụ nữ Thủ đô

 Ảnh minh họa

 Chủ tịch Hồ Chí Minh trao huy hiệu cho đại biểu có nhiều thành tích tại Đại hội Những người xuất sắc trong phong trào "Ba đảm đang" của phụ nữ Thủ đô ngày 2/12/1965

Đại hội Ba đảm đang của phụ nữ Thủ đô lần thứ nhất, khai mạc rất trọng thể vào tối 1-12-1965 tại hội trường Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Chiều 2-12-1965 (ngày họp thứ 2) vào khoảng 16 giờ, Đại hội vô cùng sung sướng, phấn khởi được đón Bác. Cùng đi với Người có Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Anh hùng miền Nam Tạ Thị Kiều. Vừa thấy Bác, cả Hội trường đứng bật dậy, vỗ tay ran như sấm lẫn với tiếng reo vô cùng phấn khởi.

– Bác! Bác đến! Bác đến!… Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!

Sau mấy phút vô cùng sôi nổi, Bác giơ tay ra hiệu (một cử chỉ thường có của Bác) cho Đại hội im lặng, rồi Bác tươi cười chỉ vào chị Kiều và nói:

– Hôm nay, Bác dẫn “cô bé này” đến với Đại hội, các cô, các chú (Đại hội có một số đại biểu là nam giới) có phấn khởi không?

Cả Đại hội vỗ tay rầm rầm xen lẫn tiếng:

– Thưa Bác, có ạ!

Không khí Đại hội thật vô cùng náo nhiệt, sôi nổi. Bác đã kể cho Đại hội nghe về những gương anh hùng của phụ nữ ta trong thời kỳ bí mật, trong cuộc kháng chiến chống Pháp và sự hy sinh anh dũng của chị em miền Nam trong chống Mỹ.

Thật bất ngờ, Bác rút trong túi ra một cột báo của Báo Thủ đô ngày hôm đó, đọc tên bảy bà và chị, xong Bác hỏi:

– Các cô ấy có mặt ở Đại  hội này không?

Hội trường lại vang lên:

– Thưa Bác, có ạ!

Bác tươi cười nói:

– Hôm nay, Bác đọc báo thấy có đăng thành tích của bảy cô là công nhân, là nông dân, là giáo viên… Bác rất vui, Bác có mấy chiếc huy hiệu để tặng các cô ấy.

Mọi người sung sướng vỗ tay tưởng làm vỡ phòng họp.

Sau cùng Bác hỏi:

– Các cô có muốn được Bác thưởng Huy hiệu của Bác không?

Cả Hội trường lại phấn khởi trả lời vang lên:

– Thưa Bác, có ạ, có ạ!

Vậy các cô về làm công tác cho tốt, Bác sẽ thưởng!

Cả Hội trường lại vang lên như sấm.

 

Vào nhầm nhà trẻ

Ở chiến khu Việt Bắc, một lần Bác đến thăm nhà nữ đồng chí Loan, người đã kéo cờ ở Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Vào đến nhà, thấy đông con nhỏ, Bác nói vui:

– Ồ tưởng đây là nhà cô Loan, hóa ra mình vào nhầm nhà trẻ!

Biết Bác phê bình khéo, chị gượng cười và báo cáo:

– Thưa Bác đây là tiểu đội của vợ chồng cháu đấy ạ!

Bác vui vẻ bảo chị tập trung “tiểu đội” cứ lần lượt, bé nhất đứng trước Bác chia kẹo. Chị đang loay hoay sắp xếp đội hình, Bác bảo:

– Tiểu đội trưởng cũng đứng vào hàng chứ!

Bác chia kẹo cho các cháu và chị nữa. Khi đến lượt chị, Bác nói vui:

Bác khen là cô đã có công nuôi dạy các cháu ngoan.

 

Bác “Chấm bài” cho một cô giáo

Sáng 17 tháng 9 năm 1958, Bác đến thăm ngót 3.000 thầy giáo, cô giáo của toàn miền Bắc được tập trung về Trường Bổ túc Công nông Trung ương để nghiên cứu tình hình nhiệm vụ của cách mạng và nhiệm vụ của ngành giáo dục.

Bác nói chuyện với các thầy giáo, cô giáo về nghề dạy học, nghề “trồng người”.

Tại buổi nói chuyện này, có một chuyện làm mọi người nhớ mãi và trở thành một kỷ niệm không thể quên. Lúc Bác nói chuyện xong một cô giáo của Trường Lương Ngọc Quyến – Liên khu Việt Bắc lên tặng Bác một món quà nhỏ. Mọi người thấy cô giáo trân trọng tặng Bác một chiếc cặp ba dây. Bác mở ra: Trong cặp có 4 chiếc khăn mùi soa. Bác cầm một chiếc và đọc to những dòng chữ thêu trên khăn. Đó là một bài thơ ngắn. Đọc xong Bác trích ra hai câu và “chấm bài” ngay tại chỗ. Câu thứ nhất: “Bác là ánh sáng quang vinh”, Bác sửa: “Bác là Hồ Chí Minh” ; và câu thứ hai: “Chúng con quyết trí hy sinh” lại được Bác sửa: “Chúng tôi quyết chí hy sinh”. Bác vui vẻ nói: “Quyết chí” mà cô giáo viết sai chính tả thành “Quyết trí”. Cả Hội trường cười vui, làm không khí thân mật, đầm ấm, tình cảm giữa lãnh tụ với nhân dân mà ấm áp như cha con trong nhà.

 

Gái mà làm anh nuôi à?

Đến thăm một đơn vị bộ đội phòng không, đang giữa câu chuyện với ngót 500 cán bộ, chiến sĩ, Bác hỏi:

– Có anh nuôi ở đây không?

– Có ạ!

– Các cháu lên đây.

Các cô gái ngày thường lấm lem than nồi, thế mà giờ đây lại được Bác Hồ quan tâm, cảm động quá cứ ôm lấy Bác Hồ mà khóc. Bác hỏi vui:

– Các cháu làm gì?

– Chúng cháu làm anh nuôi ạ!

– Gái mà làm anh nuôi à?

Bác cháu bật cười vui vẻ.

 

 

Cán bộ nữ phải sát quần chúng

 Ảnh minh họa

 Bác Hồ đi thăm một hợp tác xã ở Nam Ðịnh năm 1959


Hồi đó anh chị em là cán bộ miền Nam, gồm năm đến sáu ngàn người, tập kết ra miền Bắc được đưa lên nông trường ở Yên Bái, Lào Cai. Do cuộc sống gian khổ, không quen khí hậu miền Bắc nên số đông bị ốm, rồi lại hết việc làm. Với ý nghĩ hai năm sẽ trở về quê hương nay gặp quá nhiều khó khăn, nhiều người bất mãn… Trước tình hình đó, Nhà nước chủ trương lập các khu điều dưỡng cho cán bộ miền Nam… Khi chúng tôi mời Bác về thăm anh em ở các Trại Thường Tín và Thanh Trì thì Bác nhận lời ngay…

Trại xây trên khu đất rộng nên Bác chưa vào hội trường vội, Bác đi một lượt thăm mọi nơi, mọi chỗ ăn chỗ ở, Bác thấy sạch sẽ, vừa ý. Bác hỏi tôi:

- Lúc nào cũng sạch sẽ như thế này à?

- Thưa Bác, vâng ạ!

Sau khi thăm các trại điều dưỡng, bác còn thăm trường Nữ sinh Trưng Vương. Các cháu như đàn o­ng, quây quanh lôi kéo Bác, Bác thấm mệt, toát cả mồ hôi. Tôi liền ngăn: “Ô, các cháu đi xuống đi, làm thế Bác mệt”. nhưng Bác bảo: “Kệ các cháu”…

Có nhiều dịp được tiếp xúc làm việc gần Bác, tôi thấy Bác rất quan tâm đối với cán bộ miền Nam cũng như đối với phụ nữ. Bác lắng nghe và ân cần chăm sóc thăm hỏi động viên họ, khuyên bảo cán bộ phụ nữ phải đi sát quần chúng, phải biết nấu cơm, phải biết tắm rửa cho trẻ con. Đối với dân, Bác rất tôn trọng, quan tâm đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân. Bác sống rất giản dị, thanh đạm.

(Trích lời kể của bà Lê Minh Hiền
Nguyên Thứ trưởng Bộ Cứu tế  nay là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội)

  

 

Vinh dự được đón Bác Hồ

 Ảnh minh họa

 Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi chị em dân công lao động đào mương chống hạn ở Từ Liêm, Hà Nội, ngày 16/12/1958


… Thấy Bác đứng dưới bóng cây mát, chúng tôi đến vây quanh Bác, đồng chí Bộ trưởng cũng đến đứng gần Bác.

Bác khen:

- Ở đây gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp thế là tốt. Và Bác hỏi:

- Các cô các chú ở đây đã có “Chi bộ 4 tốt” chưa?

- Dạ thưa Bác, có ạ!

- Ở đây đã có “Chi đoàn thanh niên 4 tốt” chưa?

- Dạ, thưa Bác, có ạ!

- Đảng viên phải gương mẫu, đoàn viên phải đầu tàu. Ở đây các cô các chú lại có phong trào thi đua tốt, tự lực cánh sinh làm được nhiều việc, nhận được lá cờ đầu của ngành Y tế là phải. Nhưng đây mới là thành tích bước đầu. Các cô chú phải  khiêm tốn học tập và phát huy thành tích hơn nữa. Các cô các chú phải chữa bệnh bằng nhiều cách. Có thuốc quý chưa đủ, cần cho người bệnh ăn ngon và phù hợp với từng bệnh cũng là liều thuốc quý. Lại cần phải tuyên truyền, giải thích cho đồng bào xung quanh biết giữ gìn vệ sinh. Cần làm cho người bệnh khi khỏi bệnh biết cách phòng bệnh cho mình và cho gia đình mình.

(Trích lời kể bà Trương Thị Minh Tri - Bác sĩ bệnh viện Vân Đình - Hà Tây)

  

Các cô còn phong kiến thế à?

Đại hội Liên hoan chiến sĩ thi đua toàn quốc đầu tiên, tổ chức ở Việt Bắc hồi tháng 5 năm 1952…

Chiều mát, Bác đến từng tổ chiến sĩ ân cần thăm hỏi, rồi mọi người theo Bác ra một quãng đồi san phẳng để vui chơi tập thể. Hồi đó, phong trào nông tác vũ “son la son” mới gia nhập Chiến khu Việt Bắc. Bác bảo các chiến sĩ: “Các cô, các chú, chiến đấu đã chiến đấu hăng, vui nhộn phải vui nhộn mạnh. Nào, ta nhảy đi!”. Đám thanh niên rất sẵn sàng, nhưng đám thiếu nữ còn sượng sùng ra ý rụt rè… Bác bảo: “Các cô còn phong kiến thế à?”. Được Bác khuyến khích, cả nam lẫn nữ bấy giờ mới cầm tay, nhảy tưng bừng giữa dàn nhạc mồm: “Son la son…” vang dội cả khu đồi.

(Trích trong sách Bác Hồ sống mãi với chúng ta, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 2, tr.53)

 

Muôn vàn tình thân yêu dành cho các cháu gái

 Ảnh minh họa

 Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần thăm hỏi bà con xã Tam Sơn, Tiên Sơn, Hà Bắc trong dịp Người về thăm và chúc Tết đồng bào, ngày 9/2/1967

Một điều Bác dạy bảo mà suốt đời tôi không bao giờ quên là: “Báo chí là đại biểu cho dư luận, phải giúp Chính phủ đạt được thành công trong các chính sách đối nội đối ngoại. Sau này những lúc tình hình cách mạng có chuyển biến mới, người làm báo phải suy nghĩ nhiều. Câu nói của Bác giúp tôi nhớ tới vị trí và tính chất của báo chí ta. Một lần, Bác hỏi chị Thanh Thủy và tôi: “Các cô đã có con chưa? Các cô đã biết bế con, nuôi con chưa? Làm báo Phụ nữ không phải chỉ nói chính trị suông, giải phóng phụ nữ chung chung mà còn phải hướng dẫn cho chị em cách nuôi con, dạy con chăm lo việc gia đình. “Chị em trong cơ quan hỏi Bác nhiều điều. Bác trả lời cả những câu hỏi nhỏ nhặt nhất: “Tại sao trong họa báo Liên Xô lại thấy ảnh nhiều chị em để tóc dài? Có phải là sau khi vận động phụ nữ cắt tóc ngắn rồi lại phải vận động phụ nữ để tóc dài hay sao?”. Bác trả lời đại ý: Sau Cách mạng Tháng Mười, Liên Xô có rất nhiều khó khăn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng cuộc sống mới. Phụ nữ phải đem hết sức mình ra chiến đấu và sản xuất, cho nên chị em ăn mặc giản dị, tóc cũng cắt ngắn để đi lại cho gọn. Bây giờ, chiến tranh thứ hai kết thúc đã nhiều năm, nền kinh tế đã được khôi phục và phát triển, đời sống được nâng cao, phụ nữ đã có thể trang điểm cho thêm đẹp, ai cho rằng để tóc dài đẹp và không vướng víu gì trong sản xuất thì cứ để…

Năm 1952 có Đại hội liên hoan các anh hùng, chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất và Hội nghị bàn về chiến tranh du kích. Sau hai cuộc họp lớn đó, mọi người náo nức khen ngợi hai bản báo cáo của anh hùng Nguyễn Thị Chiên và của chị Phạm Thị Nhật, Bí thư chi bộ. Một hôm, Bác đến thăm cơ quan, chị em chúng tôi đều nói đến hai bản báo cáo ấy. Bác hỏi: “Các cô có biết vì sao mà báo cáo của các cô ấy hay không?”. Chị Đinh Thị Cẩn thưa: “Đó là do chị Chiên, chị Nhật đều lăn lộn, xông pha nhiều trong thực tiễn chiến đấu cho nên mới nói lên sự thật rất sinh động. Bác vừa cười vừa nói: “Đúng là như thế, nhưng không phải chỉ có thế. Các bản báo cáo ấy hay còn là do không có sự sửa chữa, thêm thắt của nhiều người khác…”. Tôi suy nghĩ rất nhiều. Câu nói ý nhị của Bác nhắc nhở tôi mỗi khi sử dụng hoặc biên tập lại bài của thông tin viên, bạn đọc trong đông đảo nhân dân, phải luôn luôn cố gắng ghi lại đúng đắn, trung thực những lời nói, những ý nghĩ mộc mạc, giản dị của những con người trong thực tiễn sản xuất và chiến đấu… không thể tùy tiện sửa đổi thêm bớt theo ý nghĩ chủ quan của mình./.

(Những kỷ niệm sâu sắc của phụ nữ Việt Nam với Bác Hồ,

 NXB Phụ nữ, 2005, tr.117)

 

Bác Hồ với hai nữ nghệ sĩ quân đội

Nghệ sĩ Kim Ngọc - một giọng ca vàng của Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị - đã nhiều lần được gặp Bác Hồ. Một lần, chị và hai diễn viên Thuỳ Chi, Xuân Đức được vào hát cho Bác nghe. Hát xong, lúc trở về, Bác chia kẹo cho từng người và thơm lên trán mỗi người. Bác nói: “Các cháu chỉ được thơm một cái thôi, Bác còn để dành cho các chiến sĩ của Bác”.

Năm 1957, Đoàn Ca múa Quân đội sang biểu diễn ở Triều Tiên đúng dịp Bác đang thăm nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên. Bác tìm ra chỗ Đoàn ở, trên một quả đồi cao. Bác đến để thăm hỏi và động viên đoàn.

Năm 1959, nghệ sĩ Kim Ngọc sinh cháu đầu lòng, thật là một tin vui cho gia đình nghệ sĩ. Sau khi sinh cháu, chị lại được gặp Bác. Vì vừa sinh con nên sức còn yếu, có lúc thấy giọng hát chị đuối dần.

Bác nói với chị: “Cháu vừa sinh nở, người gầy lắm, phải chú ý bồi dưỡng cho mau lại sức”. Chị thưa với Bác là do sức khoẻ kém nên tiếng hát không được như trước. Bác lại bảo: “Thế thì cháu phải đi học thêm về ca nhạc dân tộc… chân không đến đất, cật không đến trời, thì không ứng dụng được đâu... ”. Vâng lời Bác, sau ðó chị ðã xin đi học một lớp dân ca và nhờ đó sức hát lại lên.

Nghệ sĩ Tường Vi - một giọng ca được nhiều người yêu mến - kể lại vinh dự được gặp Bác nhiều lần. Chị kể:

“ - Tôi cũng có hạnh phúc được gặp Bác nhiều lần. Không phải chỉ gặp Bác mỗi khi vào biểu diễn phục vụ chiến sĩ ở tuyến lửa, ở nơi xa về. Những lần ấy Bác đều gọi và vào cho quà. Bác thường hỏi: “Nơi các cháu đi qua, đồng bào có bị đói không” và “Đơn vị các cháu đến, bộ đội có bị ghẻ không?”. Nghe câu hỏi của Bác, tôi càng thấm thía sự quan tâm của Bác đối với mọi người...

Nhiều lần ấy, Bác thường hỏi một câu mà nghệ sĩ Tường Vi và mấy bà mẹ trẻ là diễn viên của Đoàn ca múa Tổng cục Chính trị không thể ngờ tới: “Thế các cháu đi diễn dài ngày thì gửi con cho ai?” Câu hỏi ấy làm cho các chị cảm động đến ứa nước mắt.

Nghệ sĩ Tường Vi kể một câu chuyện rất riêng của mình:

- Lần tôi sinh cháu đầu lòng, không may cháu bị mất. Tôi đau buồn quá đến phát ốm. Không rõ ai đã nói chuyện này với Bác, Bác cho gọi tôi vào. Được Bác gọi, tôi mừng quá, vội vào ngay. Bác nhìn tôi hồi lâu rồi bảo: “Thôi, “thua keo này, bày keo khác”. Trông cháu thiếu máu quá, nghỉ hát, bồi dưỡng đã…”

Lần gặp Bác này, tôi càng cảm nhận sâu sắc một điều: Bác quan tâm đến mọi người, đặc biệt là đối với các bà mẹ và trẻ em.

(Trích theo Tạ Hữu Yên: Mênh mông tình thương Hồ Chí Minh, Nxb.Thanh niên, H.2002, tr.37-39)

 

Bác Hồ với nhân dân và chị em phụ nữ Nghệ An

Trong lần nói chuyện với đại biểu nhân dân Nghệ An dịp về thăm quê ngày 14-6-1957, khi nói đến những thành tích của tỉnh trên lĩnh vực nông nghiệp, Bác nhấn mạnh đến vai trò của chị em phụ nữ, Bác nói: “Tôi muốn nêu một công trạng của chị em phụ nữ tỉnh ta. Đó là phong trào chăn nuôi gia súc”. Bác khen: Phụ nữ Anh Sơn, Nghi Lộc phong trào nổi trội hơn và Bác căn dặn phụ nữ Anh Sơn, Nghi Lộc phải cố gắng hơn nữa, để có kết quả cao hơn, để làm mẫu, làm gương cho chị em khác cùng thi đua. Còn chị em các huyện khác phải thi đua cho kịp với chị em Anh Sơn, Nghi Lộc… Tiếp đó, Bác biểu dương chị Trương Thị Tâm ở Nghĩa Đàn một mình nuôi 300 con gà, 4 con lợn, chị còn làm ruộng, tham gia công tác xã hội, làm tổ trưởng phụ nữ. Bác nói “Đây là một phụ nữ anh hùng… Anh hùng không phải “Đông chinh Tây phạt”, hoặc cứ làm cái gì kỳ khôi xuất chúng. Nuôi được nhiều lợn, nhiều gà, tăng gia sản xuất, tiết kiệm, tham gia công tác xã hội tốt, như thế là anh hùng, như thế là chiến sĩ”… “Các chị em ở đây cứ cố gắng thì ai cũng có thể làm anh hùng, chiến sĩ”. Những lời căn dặn của Bác thật cụ thể, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc. Làm theo lời Bác để trở thành anh hùng, chiến sĩ không phải chuyện gì quá xa xôi. Mỗi chị em chúng ta hãy làm tốt những việc giản dị, bình thường hàng ngày trong gia đình, thôn xóm, bản làng, cơ quan, đơn vị.

Ngày 9-12-1962, Bác đến thăm Nhà máy Cơ khí Vinh. Nói về những sáng kiến trong cải tiến sản xuất của công nhân nhà máy, Bác hỏi “thế thì các cháu trai có sáng kiến nhiều hơn hay các cháu gái có sáng kiến nhiều hơn?”. Được biết các cháu trai có nhiều sáng kiến hơn, Bác nhẹ nhàng động viên “Các cháu gái phải cố gắng”.

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Bác Hồ nhiều lần gửi thư động viên, khen ngợi các mẹ, các chị phụ nữ Nghệ An đã chịu nhiều hy sinh, đóng góp xương máu, công sức tham gia phục vụ kháng chiến. Ngày 1-5-1949, Bác gửi thư cho Hội mẹ chiến sĩ Liên khu IV, Bác viết: “Các chiến sĩ thì sẵn sàng hy sinh gia đình, hy sinh tính mệnh để giết giặc cứu nước… các bà thì thương yêu săn sóc chiến sĩ như con cháu ruột thịt. Thế là các cụ, các bà cũng trực tiếp tham gia kháng chiến”. Ngày 16-3-1967, Bác gửi thư cho cán bộ và nhân viên nhà thương Nghệ An. Trong thư Bác viết “hầu hết cán bộ và công nhân viên của Nhà thương là phụ nữ… các cô, các cháu đã vượt khó khăn gian khổ, quyết tâm xây dựng một Nhà thương tốt… Bác rất vui lòng khen các cô, các cháu và mong tất cả mọi người đoàn kết tốt và tiến bộ nhiều”.

Chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, Nghệ An là điểm nút quan trọng, địch ngày đêm bắn phá ác liệt, nhằm cắt đứt các tuyến đường giao thông, ngăn chặn nguồn tiếp tế từ hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Các đội thanh niên xung phong Nghệ An đã không quản mưa bom, bão đạn sửa cầu, làm đường, đảm bảo giao thông thông suốt. Ngày 27-1-1969, Bác gửi thư khen ngợi Đội thanh niên xung phong số 333 tỉnh Nghệ An. Bác viết: “Đội phần lớn là các cháu gái đã dũng cảm chiến đấu, tích cực lao động, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, bảo đảm cầu đường được thông suốt luôn… Các cháu xứng đáng là những thanh niên ưu tú của nhân dân Việt Nam anh hùng”. Bác còn căn dặn: giặc Mỹ đã thua to, nhưng chúng vẫn rất ngoan cố. Vì vậy, các cháu phải nêu cao ý chí chiến đấu, tinh thần cảnh giác cách mạng; luôn luôn đoàn kết, ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá để ngày càng tiến bộ; đem hết nhiệt tình, tài năng của tuổi trẻ cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

Bác vừa căn dặn phụ nữ tích cực lao động, chiến đấu nhưng cũng phải cố gắng học tập, nhất là các cháu gái. Nói chuyện với đại biểu nhân dân Nghệ An ngày 14-6-1957, khi biết số lượng học sinh gái ít hơn nhiều hơn so với học sinh trai, Bác đã không vui. Bác nói “Tỉnh ta có 7 vạn học sinh. Thế là khá, nhưng trong đó chỉ có 32 học sinh gái ở cấp III và 865 học sinh gái cấp II là còn ít. Thế thì các cháu gái phải cố gắng, các vị cha mẹ đừng tiếc công mà giữ con gái ở nhà, không cho các cháu đi học”. Đến thăm Trường Sư phạm miền núi Nghệ An (ngày 9-12-1961), Bác hỏi thăm học sinh các dân tộc. Khi Bác hỏi đến các cháu học sinh dân tộc Tày, có một học sinh nam đứng dậy, Bác hỏi: “chỉ có một cháu thôi à? Sao lại không có cháu gái? lần sau phải có cháu gái”

Được tin các cụ, các bà trong Hội Mẹ Chiến sĩ Liên khu IV tuổi đã cao mà vẫn cố gắng học tập, Bác rất xúc động. Bác viết thư động viên: “Nhiều cụ, bà tuy tuổi tác đã cao, vẫn cố gắng học chữ, học làm tính. Thật là đáng kính, đáng quý. Chẳng những các chiến sĩ mà tôi và Chính phủ cũng biết ơn các cụ, các bà”.

Để phụ nữ thật sự tiến bộ, bình đẳng, Bác mong muốn phụ nữ cần cố gắng để góp sức vào mọi công việc, cả trong việc lãnh đạo, quản lý. Trong Di chúc Bác viết vào tháng 5-1968, Người căn dặn: “Đảng, Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”. Trong thư gửi đồng bào tỉnh nhà vào tháng 8-1949, Bác vui mừng khi biết xã nào cũng có phụ nữ tham gia vào hội đồng nhân dân. Bác viết: “Tôi rất vui lòng rằng xã nào cũng có phụ nữ tham gia hội đồng nhân dân… Phụ nữ phải tham gia chính quyền nhiều hơn và thiết thực hơn nữa…”. Nói chuyện với Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (ngày 8-12-1961), Bác hỏi: Ban Chấp hành Đảng bộ ở đây có tất cả bao nhiêu đồng chí?… “Có mấy đồng chí gái? (“Dạ, 3 đồng chí”). Thế là thế nào? Các đồng chí gái không được 10 phần trăm. Như thế thì đồng chí gái ít quá. Các chú có nhận thấy thế không? Không được một phần mười. Ít quá!”. Tiếp đó, ngày 9-12-1961, nói chuyện với cán bộ và đồng bào tỉnh, Bác nói: Tỉnh ta có hơn 61 vạn phụ nữ, tức là một nửa dân số, là lực lượng lớn trong công cuộc xây dựng Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, “so với nam giới thì địa vị của phụ nữ trong xã hội còn quá thấp kém. Thí dụ: Ở hội đồng nhân dân các xã, phụ nữ chỉ được 15 phần trăm tổng số đại biểu. Ở các cấp đảng uỷ và chi uỷ có 5 phần trăm là nữ đồng chí”. Để khắc phục tình trạng đó, Bác đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển: “Chúng ta phải có phương pháp đào tạo và giúp đỡ để nâng cao hơn nữa địa vị của phụ nữ”.

 

Từ kỷ niệm tuổi thơ

Những năm học ở bên Pháp, tôi vẫn luôn luôn hướng về Tổ quốc. Một đêm giao thừa, tất cả anh chị em người Việt Nam tụ tập tại trụ sở đón Tết của quê hương trên đất Pháp…

Tối hôm đó, Bác gặp Việt kiều ở Pari. Anh chị em Việt kiều quây quần xung quanh Bác như những người con tụ lại bên cha già. Trong tình cảm thương yêu rộng  lớn, Bác dặn dò tất cả mọi người thế này: “Các cô, các chú phải cố gắng mỗi người học giỏi một nghề, sau này trở về giúp nước nhà, góp phần làm cho dân ta giàu, nước ta mạnh”. Lời dạy của Bác đã trở thành bó đuốc soi đường cho tôi suốt những năm học tập ở xa quê hương.

Giữa năm 1959, tôi thi đỗ bằng thạc sĩ toán học. Nhớ lời Bác, tôi tình nguyện xin về nước phục vụ.

Trong những năm công tác ở Hà Nội, tôi được gặp Bác ba lần, một lần Bác đến thăm Trường Đại học Sư phạm của chúng tôi. Lần thứ hai, vào dịp Tết, tôi được gặp Bác. Trong buổi liên hoan đón năm mới hôm ấy Bác rất vui. Tôi lại được ngồi gần Bác. Bác cười chỉ vào tôi và nói với các đồng chí lãnh đạo ngồi bên cạnh:

- Sao ít phụ nữ thế? Bác muốn phong trào phụ nữ tiến bộ mạnh hơn nữa…

Tôi nghĩ trong đời tôi lúc bé đã được một lần Bác dạy cho cách học, những năm sống xa quê hương, hình ảnh Bác là nguồn động viên tôi khắc phục khó khăn để học tập. Khi trưởng thành lại được Bác săn sóc từ bữa ăn. Tôi là một trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam đã được Bác, Đảng, Cách mạng giải phóng và trở thành người có ích, được đem sức lực của mình phục vụ nhân dân, đất nước. Đối với tôi, không có gì sung sướng hơn là giữ gìn những kỷ niệm về Bác – cái vốn quý báu mà Bác đã trao cho tôi từ khi còn bé. Cái vốn quý đó mỗi ngày càng được nhân lên gấp bội, như cuộc đời tôi, được Bác, Đảng dìu dắt mãi mãi đi trên con đường sáng…

(Trích lời kể của nữ Giáo sư, Tiến sĩ Toán học Hoàng Xuân Sính)

 

Bác đã dạy tôi yêu thương con trẻ

Vào cuối tháng tư nǎm 1964, Đại hội Liên hoan Phụ nữ "5 tốt" toàn miền Bắc họp tại Thủ đô. Tất cả đại biểu về dự phần lớn là rất trẻ, nhiều cô còn trẻ hơn con dâu út của tôi, duy chỉ tôi là đầu đã bạc.

Hội trường Ba Đình bữa đó bỗng náo nhiệt hẳn lên khi nghe tin Bác đến.

Bác đến vào giữa lúc họp. Thật quá bất ngờ. Tiếng hô "Bác Hồ muôn nǎm" vang lên bắt đầu từ những hàng thế trên cùng, phút chốc loan đi khắp cả phòng họp rộng lớn này. Tôi mừng vui và cảm động đến chảy nước mắt. Nhất là khi Bác lên bàn nói chuyện thân mật, Bác lại nhắc đến tên tôi. Tôi run lên, thú thật tôi không còn tin ở tai mình nữa. Tôi cứ tưởng mình đang nằm mơ! Bên cạnh tôi, cháu Trương Thanh Trúc, diễn viên Đoàn Vǎn công quân đội ghé sát vào tai tôi nói khẽ: "Mẹ Hoan, Bác nhắc đến tên mẹ!". Lúc đó tôi mới tin là không phải trong mơ, mà là sự thật. Trong đời tôi, đây là một vinh hạnh quá lớn, một điều mà chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến. Tôi là một người phụ nữ bình thường ở một khu phố nhỏ, một người thợ thủ công già, thế mà Bác lại quan tâm đến công việc làm của tôi!

Thì ra nãy giờ tôi mải ngắm Bác... Giờ đây, tiếng Người vẫn bên tai. Mãi mãi trong đời tôi ghi tạc lời dạy của Người:

"Tǎng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân, tǎng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc".

Bác giải thích điều thứ 5 trong phong trào "5 tốt" vấn đề xây dựng gia đình nuôi dạy con cái, Bác nói: "Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một đại gia đình. Ta có câu hát:

“Nhiễu diều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Rộng hơn nữa chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghĩa:

“Lọ là thân thích ruột rà

Công nông thế giới đều là anh em”.

Đã là đại gia đình, thì sự sǎn sóc dạy dỗ cũng không chỉ nhằm làm cho con cháu mình khỏe và ngoan. Mà phải cố gắng giúp đỡ cho tất cả các cháu đều ngoan và khỏe. Về việc này chúng ta có những gương mẫu như cụ Lê Thị Hoan (Bác nhắc đến tên tôi). Cụ Hoan đã có công giáo dục mấy chục cháu xấu trở thành những cháu tốt. Nếu tất cả chị em phụ nữ ta đều cố gắng làm được như cụ Hoan thì chắc rằng con cháu của chúng ta đều sẽ ngoan và tốt.

Hội trường hướng về phía tôi vỗ tay ầm vang. Lúc này tôi lúng túng quá, chẳng biết làm gì. Tôi cúi mặt xuống, không dám ngẩng lên. Bác lại cǎn dặn các cấp Đảng bộ, chính quyền cần thiết thực giúp đỡ phong trào 5 tốt không ngừng tiến lên, để phụ nữ được đóng góp nhiều cho cuộc chống Mỹ cứu nước.

Sau cùng với giọng nói đầm ấm, Bác vui vẻ hỏi:

Già như cụ Hoan, sao cụ Hoan làm được? Tại sao các cô chưa làm được? Thế các cô có làm không?

Mọi người đều đáp:

- Có ạ? Bác lại hỏi:

- Bao giờ làm?

- Dạ, họp xong về làm ngay.

Làm được bao nhiêu?

- Thưa Bác làm khắp nơi ạ!

Tôi liếc mắt nhìn Bác, thấy Bác gật đầu tỏ vẻ hài lòng.

Thế rồi, Bác bước xuống bục. Các cô trẻ chạy tràn ra cả lối đi để đón Bác. Bỗng chị Hà Quế đi đến chỗ tôi ngồi, chị gọi:

- Cụ Hoan ơi? Cụ Hoan lên gặp Bác.

Lúc đó tôi bàng hoàng cả người. Vừa mừng vui, vừa lo lắng. Tôi cố nhấc bước lên nhưng chân tay cứ run rẩy vì quá mừng. Tôi chưa đi được mấy bước, cũng vừa Bác đến. Bác cầm tay tôi. Luýnh quýnh tôi chẳng biết nói gì, thưa gì.

Nhưng tôi toát mồ hôi, ác một nỗi các anh quay phim lại chĩa những ngọn đèn sáng rực vào phía tôi.

Như biết tôi đang lúng túng. Bác chỉ vào chiếc ghế:

- Cụ ngồi xuống đây

Tôi mạnh dạn ngồi bên cạnh Bác. Bác ân cần thǎm hỏi gia đình tôi.

- Cụ ông có khỏe không?

Thưa có ạ!

- Cụ dạy bao nhiêu cháu, các cháu hiện có ngoan không?

Tôi rất kinh ngạc, thế ra mọi việc làm của tôi và của các cháu Bác đều biết. Tôi lần lượt thưa cùng Bác số cháu nơi tôi đỡ đầu có 30 cháu. Đó là những cháu chưa ngoan. Các cháu mảng học, ham chơi bời, trèo cây, đánh nhau, có cháu ǎn cắp làm mất trật tự trị an đường phố. Mẹ cha thì buồn phiền, nhà trường lo lắng. Tôi cũng thưa với Bác những khó khǎn bước đầu trong việc tập hợp các cháu lại, tổ chức cho các cháu vui chơi, lao động và học tập. Và đến nay tôi đã có một đóng góp nhỏ đã là giáo dục được 180 cháu trở thành những đội viên thiếu niên tốt, những cháu ngoan của Bác. Có 8 cháu được chọn đến Phủ Chủ tịch liên hoan cùng thiếu nhi Thủ đô, Hè nǎm 1962. nhiều cháu đã được đeo Huy hiệu Đoàn.

Bác lại hỏi thêm.

- Các cháu đối với cụ thế nào?

- Rất thương ạ! Chúng đều gọi bằng "bà nội". Và hôm nay các cháu đều cố gắng thực hiện "5 điều Bác Hồ dạy".

 Bác nhìn sang phía chị Nguyễn Thị Thập và các đại biểu rồi Bác hỏi tiếp:

 - Đảng ủy, chính quyền, đoàn thể có giúp gì cụ không?

 - Dạ có ạ!

 - Cụ còn nguyện vọng gì nữa không?

 Thưa Bác, được gặp Bác, biết Bác khỏe, là điều sung sướng nhất, và ước mong cho miền Nam giải phóng để chị em phụ nữ và đồng bào miền Nam được đón Bác, đó là nguyện vọng duy nhất của tôi, cùng là nguyện vọng của mọi người ạ.

 Bác quay sang các đại biểu trẻ, vui cười nói:

 - Muốn Bác mạnh khỏe, muốn miền Nam giải phóng, thì phải ra sức thi đua.

 Thế là tất cả chúng tôi đều hô to: "Bác Hồ muôn nǎm?" và cứ vây lấy Người, không muốn rời Người nửa bước.

 Hôm ấy về nhà, tôi đem chuyện gặp Bác kể cho các cháu nghe, thuật lại lời dặn dò của Người cho chị em phụ nữ trong khu Hội Phụ nữ Đống Đa. Ai nấy đều vui mừng, nhất là các cháu chưa ngoan phải suy nghĩ nhiều. Tôi cũng lại nói cho mọi người ở khu phố tôi nghe. Lời kêu gọi thi đua của Bác đã được đǎng lại trên báo Đảng ngay ngày hôm sau "Trong lúc miền Nam chúng ta đang ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống mới thì phụ nữ ở phía bên kia sông Bến Hải đang cùng toàn thể đồng bào miền Nam anh dũng, hy sinh anh dũng chống đế quốc Mỹ cướp nước và bọn Việt gian bán nước. Tôi đề nghị Đại hội hoan hô đồng bào miền Nam anh hùng và chúc đồng bào miền Nam giành nhiều thắng lợi hơn nữa! Chính vì chúng ta đang xây dựng trong hoàn cảnh hòa bình, còn đồng bào miền Nam đang phải ngày đêm chiến đấu nên nhân dân miền Bắc chúng ta cần phải thi đua mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt". Thế là thành một cao trào thi đua "vì miền Nam" trong các cháu. Các cháu vừa học vừa làm tǎng giờ lấy tiền mua sách, xây dựng tủ sách kết nghĩa với các bạn thiếu niên Huế, Sài Gòn, kết nghĩa anh em và góp tiền mua vũ khí ủng hộ đồng bào miền Nam đánh thắng giặc Mỹ. Nhiều cháu đã trở thành những công nhân, cán bộ trong các cơ quan, xí nghiệp. Nhiều cháu đã lên đường giết giặc, như cháu Quách Vǎn Long cùng anh em bắn rơi máy bay Mỹ được Bác tặng huy hiệu.

 Cháu Phạm Vǎn Phương, Nguyễn Vǎn Ý lái xe cho bộ đội pháo binh, cháu Nguyễn Vǎn Thanh, Nguyễn Vǎn Thao là học sinh giỏi toàn huyện. Nhiều cháu đi học xa tận các nước đã về làm thợ, làm cán bộ như các cháu Hoàng Đình Nội, Cao Đắc Quý... các cháu cùng chúng tôi có chút ít thành tích nhỏ như vậy là nhờ công ơn dạy bảo của Bác, của Đảng. Và chính Bác là người dạy cho tôi tình yêu trẻ, cách giáo dục trẻ. Lúc sinh thời, người là "Ông Cụ trồng cây giỏi nhất nước". Và cũng vì yêu cây yêu người, Bác đã từng nói "Vì lợi ích mười nǎm trồng cây, vì lợi ích trǎm nǎm trồng người cho thế hệ mai sau.

 

"Nhà cháu mà không đến thì đến nhà ai!"

Mùa xuân năm 1962, trời lạnh đến tê tái. Một tháng trước tết, Bác Hồ gọi cục phó Cục Cảnh vệ Phan Văn Xoàn lên giao một nhiệm vụ đặc biệt mà chỉ có hai bác cháu biết: “Chú tìm cho bác một gia đình nghèo nhất ở Hà Nội, bác sẽ đi thăm họ lúc giao thừa!”.Tôi có một tháng để đi khắp Hà Nội tìm cho ra một người nghèo nhất.

Hà Nội ngày ấy không giàu, nhưng để tìm ra người “nghèo nhất” vẫn là một thách đố đặc biệt. Tôi liên hệ nhiều nơi, gặp nhiều người vẫn chưa xác định được ai “nghèo nhất”. Cho đến một ngày, một anh công an địa bàn gọi bảo tôi thử tới thăm một người phụ nữ gánh nước thuê ở khu vực anh.

Chúng tôi ghé vào một ngõ sâu trên phố Hàng Chĩnh, đó là một ngôi nhà tăm tối, phên liếp tạm bợ, bên trong chỉ có một chiếc giường tre và vài ghế gỗ lăn lóc. Bàn thờ lạnh tanh hương khói, mạng nhện bao phủ - dù đang là những ngày giáp tết. Có bốn đứa trẻ đang nằm ngồi vật vạ chờ mẹ mang gạo về. Chúng đói. Chủ ngôi nhà ấy là một người phụ nữ ngoài 40 tuổi, tên Nguyễn Thị Tín, góa chồng. Chị vốn là công nhân thất nghiệp và từ lâu nay sống bằng nghề gánh nước thuê. Với chị, tương lai và sự nghiệp của gia đình chỉ là con số 0.

Tôi báo cáo rằng nhiệm vụ Bác giao tôi đã làm xong. Bác gật đầu.

Tối giao thừa ấy, như thường lệ, Bác Hồ đi với đại diện Thành ủy Hà Nội thăm vài gia đình trong kế hoạch. Khoảng 11 giờ tối, Bác nháy mắt với tôi ngụ ý: giờ đến chương trình của hai bác cháu mình.

Chúng tôi tách đoàn, gồm năm người: Bác, người thư ký, một cán bộ địa phương, tôi và một vệ sĩ khác - cùng hướng về phố Hàng Chĩnh. Bác mặc áo bông, quần vải gụ, đi dép cao su, đội mũ len đen và quấn khăn choàng cổ. Không hóa trang nhưng phải nhìn kỹ một tí mới nhận ra Bác được.

Xe dừng ngoài ngõ cách 200 mét, cả đoàn phải đi bộ vào. Tôi đi trước, gần giờ giao thừa, hương đèn thắp sáng trên mọi bàn thờ. Con hẻm thật vắng và từ đằng xa, tôi thấy bóng chị Tín đang quảy đôi quang gánh đi ngược ra ngoài phố. Ngang mặt, tôi đứng lại và hỏi nhỏ: “Chị Tín phải không?”. “Vâng ạ!”. “Sắp giao thừa chị còn đi đâu?”. “Tôi tranh thủ gánh thêm vài gánh lấy ít tiền mua quà bánh tết cho các cháu, anh ạ!”. “Chị về đi, có khách ghé thăm!”.

Người phụ nữ nghèo khổ xoay người lại nhìn những vị khách, rồi chị bàng hoàng buông rơi đôi quang gánh, chạy bổ tới, quì xuống, ôm choàng lấy chân vị lãnh tụ rồi khóc nấc lên: “Trời, sao Bác lại đến thăm nhà cháu?”. Bác Hồ rưng nước mắt: “Nhà cháu mà không đến thì đến nhà ai!”. Mọi người im lặng. Tôi, thêm một lần nữa, ngước nhìn vị lãnh tụ đất nước mình, thấy Người cao hơn tất cả.

Vào nhà, chúng tôi chia nhau thắp nhang đèn, bày quà bánh Bác dặn mang theo, chia một ít cho bốn đứa trẻ đang ngồi chờ mẹ trên chõng tre giữa nhà. Căn nhà bừng sáng, Bác quay sang hỏi về những đứa trẻ: Các cháu có đi học không? Chị Tín ngập ngừng: “Thưa, có ạ, nhưng thất thường lắm, ngày có ngày không. Chồng mất, cháu thất nghiệp, gánh nước thuê…”. Hỏi: Gánh nước thuê có đủ sống không? Ðến đây thì chị òa khóc: “Lo cái ăn từng ngày thôi, thưa Bác!”. “Giờ cháu có muốn làm việc không?”. “Thưa Bác, hoàn cảnh cháu thì không biết nói sao nữa, cháu muốn có chỗ làm để nuôi con, nhưng tứ cố vô thân, ai nhận cháu?”. Bác gật đầu không nói gì.

Gần 12 giờ, mọi người chúc tết chị Tín và ra về. Lúc này ngoài đầu ngõ, tin Bác Hồ đến thăm nhà mẹ góa con côi của chị Tín đã bất ngờ lan truyền. Hàng xóm rủ nhau khoảng mấy chục người dân đứng chật trong ngõ chờ Bác ra. Tôi hơi bối rối. Bất thình lình Bác bước lại phía mọi người, tiếng vỗ tay vang lên.

Chờ mọi người im lặng, Bác nói: “Bữa nay Bác vui vì tình cờ gặp các cụ, các cô chú, nhưng Bác cũng rất buồn vì mới từ nhà cô Tín ra. Giờ này sắp giao thừa, các cô chú có biết cô Tín còn đi gánh nước thuê không? Tại sao cả một khu phố vầy mà không thấy ai quan tâm đến một gia đình như cô Tín?”. Im lặng, một đại diện khu phố nhận lỗi, hứa sẽ quan tâm nhà chị Tín. Bác tiếp tục: “Bác muốn nói về tinh thần “lá lành đùm lá rách” trong khu phố, nhưng cái lớn nhất vẫn là trách nhiệm của Chính phủ...”.

Bước lên xe, đó là năm đầu tiên tôi thấy đi chúc tết người dân về mà Bác thật buồn. Người quay sang nói: “Các chú thấy chưa? Hôm nay mình đã đi đúng người thật việc thật rồi, nếu mà mình báo trước với thành phố, hỏi nhà nào nghèo nhất thì chắc chắn không phải là nhà cô Tín rồi…”.

Về nơi Bác ở, Bộ Chính trị đã tập họp để chúc tết Bác và cùng đón giao thừa. Bác ngồi vào ghế, mọi người ngồi xung quanh. Bác im lặng tí rồi nói từ từ: “Bữa nay tôi có một chuyến thăm một nhà nghèo nhất thủ đô Hà Nội. Cô Tín, chủ nhà, giờ này còn phải đi gánh nước thuê để có tiền mai mua gạo cho con. Chúng ta đã quá quan liêu để không biết những câu chuyện như vậy ở ngay tại thủ đô đất nước mình. Tôi biết không chỉ có một nhà như chị Tín đâu, người nghèo còn nhiều. Một đảng cầm quyền mà để người dân mình nghèo hết còn chỗ để nghèo thì đó là lỗi của Ðảng với nhân dân...”.

(Theo lời kể của Thiếu tướng Phan Văn Xoàn - nguyên là cận vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh)

 Ảnh minh họa

 Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng hoa phong lan cho ba đại biểu nữ dân quânQuảng Bình và Vĩnh Linh, năm 1968


 

Muốn công tác tốt phải học thật tốt

 

...Tháng 11-1959, tôi được điều về công tác ở phòng y tế huyện. Chưa đầy một năm, tháng 9-1960, tôi lại được về tỉnh học bổ túc văn hóa. Không ngờ dịp này, hân hạnh cho tôi: Được gặp Bác Hồ! Tháng 3-1961, Ban Giám hiệu cho biết sẽ có cán bộ Trung ương về thăm. Chúng tôi đều đoán già đoán non, chưa biết là ai. Mọi người còn đang bàn tán giữa sân thì một đoàn ô tô nối đuôi nhau chạy vào cổng. Chúng tôi hồ hộp chờ đợi.

Bỗng mọi người cùng reo lên:

- Bác Hồ! Đúng Bác Hồ rồi!

Bác tiến vào giữa tiếng hoan hô reo mừng vang dậy.

Bác đi thăm xung quanh nhà, rồi đến chỗ ăn, chỗ ngủ của chúng tôi. Đến đâu Bác cũng khen sạch sẽ và dặn mọi người chớ để Bác đi rồi lại ở bẩn. Rồi Bác hỏi các em ở trường vùng cao có được ăn no không, có được mặc ấm không, đã biết ngủ màn chưa, biết tập thể dục chưa, có nhớ nhà không?...Tôi nhớ nhất Bác dặn điều này:

- Các cháu là cán bộ dân tộc, phải làm sao lo cho đồng bào các dân tộc được ăn no mặc ấm, không tin vào ma quỷ. Muốn thế, các cháu phải công tác tốt, Muốn công tác tốt bây giờ phải học tập thật tốt đã.

Sau đó, Bác phê bình một số anh chị em khi ra tỉnh đua đòi ăn mặc, lúc trở về lại nói tiếng Kinh, không chịu nói tiếng mẹ đẻ của mình. Tuy nhiên, Bác không ngăn cấm việc học tiếng dân dân tộc khác mà còn khuyến khích. Cuối cùng, Bác dặn:

- Người dân tộc này phải học tiếng nói của dân tộc khác để hiểu biết lẫn nhau, giúp đỡ nhau học tập, và sau này nếu đi công tác ở vùng không phải dân tộc mình cũng làm việc được tốt hơn.

Trước lúc ra về, Bác bảo:

- Các cô, các chú, các cháu công tác thật tốt, học thật tốt, lần sau Bác sẽ lên thăm nữa. Các cháu có dám hứa với Bác lần sau Bác lên sẽ có thành tích bằng ba bốn lần thế này không nào?

- Dạ, thưa Bác, có ạ!

Vâng lời Bác dạy, ngày đêm tôi chăm chỉ học tập. Cuối khóa tôi được bầu là học viên giỏi. Riêng về tiếng dân tộc, ngoài tiếng Tày tôi đã thạo, tôi còn học thêm được ít tiếng Cóc Mùn, Thanh Y. Và đúng như lời dạy của Bác, nhờ tiếng dân tộc mà việc đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau học tập của toàn trường càng về cuối khóa càng tốt.

Tôi trở về huyện, đi xây dựng cơ sở phòng bệnh các xã. Chưa đầy năm tháng, lại được cử về Thái Nguyên học trường y sĩ. Ban đầu, tôi không muốn nghĩ rằng mình công tác chưa là bao, cử đi học hết lớp này đến lớp khác, cấp trên ưu tiên nhiều quá, ngượng lắm. Các đồng chí huyện bảo: “Đảng và Bác cho cô đi học để sau này phục vụ sức khỏe đồng bào các dân tộc được nhiều. Cô phục vụ được nhiều, được tốt là đền đáp được công ơn đó. Cô cứ về học cho thật giỏi, chớ có ngại ngần gì”.

(Theo Bác Hồ sống mãi với chúng ta, T.2, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005)

 

Trường học của bác

Có lần nhân câu chuyện kể với các bạn trẻ trong khu Phủ chủ tịch, Bác nói:

“Các cô, các chú bây giờ đi học có trường, có bàn ghế, có thầy cô, có bạn bè, sách vở, giấy bút, có giờ giấc đàng hoàng. Tối đến có đèn điện, thế mà một năm không lên được một lớp là không đúng. Ngày xưa, lúc Bác đang tuổi các cô, các chú thì tất cả bàn ghế, thầy cô, bạn, sách vở, giấy bút chỉ có trong bàn tay này thôi”.

Bác giơ bàn tay trái lên nói tiếp:

“Hồi ấy Bác làm bồi tàu, là người quét tuyết ở Anh, rồi đi làm phụ bếp. Làm việc từ sáng đến tối, suốt ngày không được cầm đến tờ báo mà xem. Đến đem mới hết việc, mới được đọc sách, đọc báo. Ban ngày muốn học chỉ có một cách là viết chữ lên mảnh da tay này. Cứ mỗi buổi sáng viết mấy chữ, rồi đi cọ sàn tàu, cọ thùng, đánh nồi, rửa bát, thái thịt, băm rau, vừa làm vừa nhìn vào da bàn tay mà học. Hết ngày, người thì đầm đìa mồ hôi, chữ thì mờ đi, cuối buổi đi tắm mới xóa được chữ ấy đi. Coi như đã thuộc, sáng mai lại ghi chữ mới.”

Sách Hồ Chí Minh, đồng chí của chúng ta gồm nhiều hồi ký của các bạn Pháp viết, Nhà xuất bản Xã hội Pari in năm 1970, có trích một đoạn Bác trả lời phóng viên A. Kan(báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp) như sau:

“Tôi không có hạnh phúc được theo học ở trường đại học. Nhưng cuộc sống đã cho tôi cơ hội được học lịch sử, khoa học xã hội và ngay cả khoa học quân sự. Phải yêu cái gì? Phải ghét cái gì? Cũng như tôi, tất cả người Việt Nam cần phải yêu độc lập, lao động, Tổ quốc”.

“Tất nhiên không phải riêng tôi mà toàn thế giới đều kính trọng những nhà báo chân chính. Tôi cũng có thời gian học làm báo, cũng có thời gian tôi bỏ ngòi bút, cầm súng để chống lại kẻ thù, chống lại chủ nghĩa thực dân. Khi tôi còn ở Pháp, khi còn biết ít tiếng Pháp, tôi đã là tổng biên tập, biên tập và phát hành cả một tờ báo.”

Bác thường nói với cán bộ:

“Học thêm được một thứ tiếng nước ngoài coi như có thêm một cái chìa khóa để mở thêm một kho tàng tri thức. Việc học là việc suốt đời.”

(Theo Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của Chủ tịch HồChí Minh,Nxb. Chính trị quốc gia, 2007)

 

Hai bàn tay

 

Sài Gòn năm 1911. Năm ấy, Bác Hồ hai mươi mốt tuổi. Một hôm, anh Ba - tên của Bác Hồ bấy giờ - được một người bạn đưa đi xem đèn điện ở trước của tiệm cà phê của Pháp, xem chiếu bóng và máy nước. Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy.

Hai người dắt nhau đi nhiều nơi trong thành phố, những cảnh tượng đầy rẫy bất công đập vào mắt họ. Đột nhiên anh Ba hỏi người bạn:

- Anh Lê, anh có yêu nước không?

Người bạn ngạc nhiên và đáp:

- Tất nhiên là có chứ.

Anh Ba hỏi tiếp:

Anh có thể giữ bí mật được không?

- Có!

- Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi ốm đau. Anh có muốn đi với tôi không?

Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?

Đây, tiền đây! - Anh Ba vừa nói vừa giơ hai bàn tay - Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh cùng đi với tôi chứ?

Bị lôi cuốn vì lòng hăng hái của anh Ba, anh Lê đồng ý. Nhưng sau đó anh Lê không đủ can đảm để giữ lời hứa. Thế là chỉ có một mình anh Ba, rời cảng Nhà Rồng bước chân xuống tàu để đi sang các nước, trước hết là sang Pháp.

Với quyết tâm và lòng yêu nước sâu sắc, Bác đã làm nhiều nghề khác nhau như: phụ bếp, bồi bàn, quét tuyết,...suốt từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối hằng ngày. Bác chỉ mong sao tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.

Ý chí, nghi lực của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành thật lớn lao, niềm tin và lý tưởng của anh thật cao đẹp. Và lý tưởng, niềm tin ấy đã trở thành sự thực, bởi chính sự ra đi của anh đã mở ra bước ngoặt cho dân tộc và sau đó mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

(Theo Chuyện kể về Bác Hồ, Vũ Kỳ chủ biên, Nxb. Giáo dục, 1982)

 

Bác tập cho chúng tôi có kế hoạch lao động

Hồi ở Pác Pó, sáng ra Bác thường bố trí công việc cho chúng tôi làm. Ai không có việc được Bác tìm việc cho. Ai đã sắp xếp được công việc trong ngày, Bác thấy vui dù việc làm ấy rất nhỏ. Bác thường hỏi từng người:

-Hôm nay chú định làm gì?

-Thưa Bác, vá áo ạ!

-Được! Còn chú kia?

-Thưa Bác, nghiên cứu tài liệu ạ!

-Được! Còn chú này chưa có việc gì à, sách này hay đấy, chú đọc đi.

Tôi cũng như các anh em khác thường được Bác chăm lo như vậy. Đặc biệt là khi chúng tôi nghiên cứu tài liệu, Bác thương hướng dẫn rất chu đáo giúp chúng tôi đi vào nền nếp. Đối với anh chị phục vụ, Bác cũng ân cần chỉ bảo. Tôi nhớ có lần Bác nói với chị Trưng người Cao Bằng:

- Nấu cơm, rửa bát cũng phải có trật tự, có kế hoạch cụ thể. Trước khi nấu cơm phải kiếm củi rồi mới đổ gạo vào nồi vo, rồi nhóm lửa và chạy đi lấy lá đợi cơm cạn đậy vào. Chứ vo gạo rồi mới chạy đi kiếm củi thì thật là vô lý.

Việc nhắc nhở thương xuyên của Bác rèn luyện cho mọi người ở cạnh Bác có một thói quen sắp xếp công việc hàng ngày, rèn luyện cho bộ óc chúng tôi quen làm việc có kế hoạch, tránh sự tùy tiện tản mạn và nhất là tránh nhàn rỗi.

(Theo Chúng tôi có Bác Hồ, Nxb. Lao Động, 2001).

 

Bác rèn luyện sức khỏe

Bác chú ý rèn luyện sức khỏe rất đều đặn. Trong thể thao, Bác thích các môn: Võ, bóng chuyền và bơi. Năm 1945, khi đang ở 12 Ngô Quyền, Bác nói:

-Chú có biết võ không? Chú xem bài nào phù hợp với sức khỏe và tuổi của Bác thì hướng dẫn cho Bác.

Tôi hướng dẫn cho Bác bài Bát bộ liên hoa quyền, gồm bn mươi chín động tác trong một tuần. Khi thuộc rồi, hằng sáng Bác thường tập bài quyền.

Vì thích bóng chuyền và bơi nên Bác đề ra nguyên tắc chỗ ở của Bác trên Chiến khu nên cách nới Chính phủ đóng khoảng 3km, phải có bãi để làm sân bóng và có suối để bơi. Tìm được chỗ ở như vậy cũng khó nên chúng tôi xin phép Bác tìm sân, suối cách đó từ 500m đến 1km.

Sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc, Bác cháu cùng nhau đánh bóng chuyền. Hôm nào không đủ người đánh bóng chuyền thì đi bơi. Tôi thường bố trí hai người khỏe để bảo vệ Bác.

Về mùa hè, những lần Bác đi công tác phải trải qua sông, qua suối, chúng tôi thường chuẩn bị thuyền hoặc mảng để đưa Bác qua. Nếu nước lớn, chảy xiết thì Bác đi thuyền. Gặp những hôm trời lặng, nước chảy từ từ thì Bác không chịu ngồi thuyền, ngồi mảng mà tự bơi. Chúng tôi cử một người bơi giỏi cùng bơi vớiBác. Lên bờ, Bác nói:

-Bơi thế này vừa sạch người vừa khỏe.

Sau này nhữngphim tư liệu hiếm hoi ghi lại cuộc sống của Người trên chiến khu cho chúng ta thấy được hình ảnh của Bác lội suối, băng rừng, đầu đội tấm áo vừa đi, vừa phơi cho khô. Hình ảnh của một vị lãnh tụ thật gần gũi với nhân dân.

Về Hà Nội, điều kiện bơi và đánh bóng bị hạn chế nên năm 1959 chúng tôi đưa Bác ra Bãi Cháy nghỉ vài ngày. Sáng lấy ca nô đưa Bác ra đảo nghỉ ở đó đến tối mới về, đem theo cả nồi niêu nấu cá luôn. Những chuyến đi như thê này giúp Bác nghỉ ngơi, thư giãn và có điều kiện gần dân hơn.

(Theo Chuyện kể của những người giúp việc Bác Hồ,Nxb. Thông tấn, 2003)

 

Bác Hồ và câu chuyện về cuộc vận động xây dựng cuộc sống mới

-Anh chị em đến chúc thọ tôi phải không ?

Đó là câu hỏi đầu tiên của Chủ tịch khi Cụ bước vào phòng khách. Sau khi vui vẻ mời chúng tôi ngồi, Cụ tiếp ngay:

-Cái ông nhà báo nào công bố ngày sinh của tôi thật đáng phạt. Trước hết tôi chưa thấy cái già là cái gì. Ngoài năm mươi tuổi chưa gọi là già. Sau nữa, chúng ta đang ở thời kỳ công tác, chưa đến lúc phải cần đến hình thức lễ nghi như chúc thọ.

Buổi sáng mùa hè hôm đó, nước da của chủ tịch có một màu hồng khỏe mạnh và đôi mắt sáng ngời, đôi mắt của thanh niên.

Có mấy đoàn thể cùng vào chung để chúc thọ. Giới thiệu đến Uỷ ban Đời sống mới, Cụ bỗng hỏi như níu lại:

-Đời sống mới là ai?

Đóng khung câu chuyện, Cụ hỏi dồn dập, chăm chú, không cho chúng tôi lảng sang vấn đề khác. Buổi chúc thọ Hồ Chủ tịch bỗng biến thành buổi thảo luận ráo riết và đầy thân mật về đời sống mới.

-Chú cho tôi biết cuộc vận động đời sống mới đến đâu rồi?

-Thưa Cụ - tôi đáp, chúng tôi đã bắt đầu bằng sự chia ra các ban nghiên cứu, tổ chức,v.v. Nhưng công việc chính là định rõ cái hướng cho đời sống mới. Mấy khẩu hiệu “cần, kiệm, liêm, chính” chúng tôi xét ra vừa không đủ, vừa cổ...

-Cổ! Lạ quá, thế cơm các cụ ăn ngày xưa, bây giờ mình cũng ăn cố à?

Không khí trở nên náo nhiệt, vui vẻ. Lời nói của Chủ tịch làm nở tiếng cười chung.

-Thưa Cụ - tôi trả lời bằng cách tiếp nối câu mình đang nói dở, - sau mấy buổi họp, Uỷ ban vận động đời sống mới đã định rõ ba nguyên tắc cho đời sống mới là: dân tộc, dân chủ, khoa học.

Chủ tịch như đang ngơ ngác trước những danh từ to lớn của tôi. Thực tình tôi lo: nếu Chủ tịch không hiểu thì quần chúng hiểu sao đây. Mà quả thật, Cụ đứng hẳn về phía quần chúng. Cụ nói:

-Hay lắm nhưng mình phải xem đồng bào cần gì? Dân quê đã mấy người hiểu được thế nào là dân chủ, khoa học? Tôi hỏi thật chú, chú đi làm vận động đời sống mới thì chú làm gì trước?

Mọi người nhìn nhau và tôi không giấu nổi vẻ bối rối. Tôi nói về tuyên truyền, tổ chức,.. Cụ lắng nghe. Một họa sĩ ngồi đối diện Cụ Hồ ở cuối bàn, lặng lẽ ghi trên giấy hình ảnh vị Chủ tịch hòa nhã. Khi tôi nói hết, Cụ lắc đầu nhìn tôi, nhìn mọi người, tay gân guốc vỗ vào bụng và nói:

-Trước hết là cái này. Dân chúng cần cái này trước tiên, phải ăn đã, chú không ăn thì chú đi tuyên truyền được không? Mà muốn ăn thì phải làm gì?

-Phải làm việc, - một anh bạn nói

-Đúng, phải làm việc, phải siêng năng, thế là “cần” đấy. Ừ, muốn dùng cái tiếng gì rõ hơn cũng được, nhưng điều cốt yếu là khẩu hiệu phải thiết thực. Ví dụ bây giờ vận động tập thể thao mà lại hô hào đánh ten nít thì có mấy ai có tiền mua vợt, mua quả banh? Ở đây ngay trước Bắc Bộ phủ nhiều anh em cứ ra đường chay, tập luyện với nhau không tốn mấy mà khỏe, vui lắm. Phải thiết thực như thế, mà đừng nên tung ra nhiều khẩu hiệu quá. Ít mà thực hiện được đến nơi đến chốn thì hơn. Sau nữa, muốn cho cuộc động có kết quả thì người đi vận động phải làm gì?

Cả bọn chúng tôi người bàn thế này, người bàn thế nọ. Cụ chậm rãi nói một cách nghiêm trang.

-Mình phải làm gương.

Và sợ chúng tôi hoài nghi, Cụ nhắc lại:

-Mình phải làm gương.

Cụ đưa mắt nhìn mọi người như để căn dặn điều đó

... Đến đây Cụ đứng dậy vì có khách chờ.

(Theo Người là Hồ Chí Minh (Tập hồi ký),Nxb. Hội nhà văn, 1995)

 

“Hỡi ai bưng bát cơm đầy”

Tôi còn nhớ như in vào một buổi sáng hè(tháng hè năm 1960), sau khi dự Đại hội đoàn kết chống hạn tại Ứng Hòa-Mỹ Đức xong, Bác ra cánh đồng thôn Thái Bình, xã Vạn Thắng (Ứng Hòa) thăm nông dân chống hạn.

Những năm ấy, vì hệ thống mương máng, thủy lợi chưa có là bao nên bà con nông dân rất vất vả, nắng quá thì hạn, mưa nhiều thì úng. Đời sống của người nông dân thật bấp bênh.

Hôm ấy, Bác mặc quần áo gụ, đội mũ lá cọ, chân đi dép cao su, quần xắn đến đầu gối, khăn vắt trên vai, tay chống gậy đi ra cánh đồng thăm bà con nông dân đang tát nước.

Mới 10 giờ mà trời nắng như đổ lửa, chúng tôi – những cán bộ đi theo cũng thấm mệt, mồ hôi vã ra như tắm tràn xuống mắt giàn giụa, tràn xuống miệng mặn chát. Bác đi rất nhanh, mặc dù đường sống trâu, Bác vẫn thoăn thoắt đặt chân trên các gồ đất cách nhau 30-40 cm một cách nhẹ nhàng như một lão nông thực thụ. Đến dầu một con mương, đồng chí chủ tịch Hà Đông thấy bờ mương hẹp, khó đi, vội chạy lên trước để mời Bác đi theo đường chính. Bác xua tay và rẽ vào bờ mương để đến chân ruộng bà con đang lao động giữa cánh đồng bị hạn. Tất nhiên chúng tôi phải đi sau và cố hết sức mới kịp. Đến một chỗ bờ mương bị xé ra 1,5m để tát nước gần đấy, đồng chí Chủ tịch lại chạy lên định dắt Bác đi, chưa kịp thì Bác đã nhảy phắt và đi tiếp sang bên kia. Những người đi sau, người nhảy qua được, người phải men xuống ruộng để qua.

Thấy Bác đến, lại còn mặc như lão nông, bà con vui mừng bỏ cả gầu đổ xô lại vây quanh Bác rất đông. Có cháu thiếu niên 14-15 tuổi len đến gần Bác, đưa tay lên vuốtrâu Bác. Bác thân mật hỏi thăm mọi người, bắt tay bà con, rồi nói bằng giọng miền Bắc pha xứ Nghệ ấm áp:

Thuở nhỏ, đã nhiêu năm, tôi sống với bà con làng xóm làm nông nghiệp, tôi hiểu nỗi cơ cực cả bà con khi trời hạn hán. Bây giờ chúng ta có chính quyền, bà con làm chủ ruộng đồng, gặp lúc thiên tai, phải cùng nhau chống hạn, cứu lúa.

Mọi người “vâng ạ!” thật rõ và to.

Sau đó Bác lên đạp guồng cùng một Bác nông dân ngoài 50 tuổi, để bác nông dân đỡ vất vả và được nhiều nước, Bác căn dặn chính quyền thôn xã phải tích cức huy động bà con biết nghề mộc xẻ gỗ để đóng guồng.

Bà con hỏi Bác đủ thứ chuyện. Bác đều trả lời thân mật, dễ hiểu. Trước khi chia tay với bà con nông dân, Bác đã đọc hai câu thơ:

“Hỡi ai bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.

Mọi người xúc động đứng mãi tại nơi đã gặp Bác, vẫy chào tạm biệt.

Theo Bác Hồ, con người và phong cách, Nxb. Trẻ, 2005

 

Muốn làm nhà phải trông cây

 

Cuối năm 1968, Tông cục trưởng Lâm nghiệp được Bác mời lên báo cáo về tình huống cây gây rừng. Sau khi thú thật với Bác làm mấy năm nay, phần thì thiên tai, lũ lụt, phần thì địch phá hoại, phần lớn nữa là dân đót rừng, chặt cây, gây cháy rừng nên rừng bị phá hoại nhiều trong khi dân vẫn cần nhiều gỗ để làm nhà. Nhà nước cần giữ rừng để chống lụt, giữ nước đầu nguồn,...Tổng cục trưởng nói:

-Cứ đà này ít lâu nữa là ta “hoàn thành kế hoạch triệt phá rừng” Bác ạ!

Câu nói đùa mà thật nghiêm túc, tuy có vẻ bi quan.Bác ngồi lặng yên, nói với anh cả Nguyễn Lương Bằng có thể sắp xếp để Bác đi thăm rừng...

Và Tết năm 1969, Bác lại viết bài “Tết trồng cây”...

Một đồng chí ở Nghệ An cho biết vào cuối năm 1961, trong một lần nói chuyện vơi toàn bộ ban chấp hành tỉnh Nghệ An, Bác đã mách cho biết “trồng cây gây rừng là rất quan trọng. Bây giờ dân chưa thấy đâu. Có khi các chú cũng chưa thấy”. Người phổ biến kinh nghiệm “Trồng cây 5 năm là có thu hoạch. Thí dụ như, nhãn 5 năm có quả, dừa 7 năm, bưởi nếu chiết thì nhanh hơn. Cây thầu dầu 3 năm có thể làm cột được. Lấy trung bình cây 7 năm, cây5 năm, cây 2 năm, ta cho là cây 5 năm. Nếu trồng cây nào tốt cây ấy thì trong 5 năm cái lợi rất to: Cây thì làm gỗ được, cây thì ăn quả được,...Nông thôn của ta, nhà ở của đồng bào phần lớn đều ọp ẹp, tối tăm chả ra sao, chả có hàng lối gì cả. Có phải thể không? Dân sinh là cái gì?. Là cái ăn, cái mặc, cái ở. Ba cái đó đều quan trọng. Ăn, mình gia tăng được. Mặc, mình gia tăng sản xuất được. Chứ còn nhà ở thì sao? Mun làm nhà thì phải có cái gì? Gỗ -Muốn có gỗ thì phải trồng cây...”

Bác hỏi đồng chí Bí thư:

-Năm nay Nghệ An được trồng mấy triệu cây?

Bác nhấn mạnh chữ “định” ý muốn nhắc Nghệ An đã “quyết” chưa?

-Dạ, thưa Bác, kế hoạch là 19 triệu cây ạ.

Bác giao hẹn:

-Các chú cứ làm sao cho năm nay trồng được 15 triệu cây cho tốt.Trông cây nào, sống cây nấy, chứ 19 triệu cây mà chết một nửa thì vô ích.

39 đồng chí tỉnh ủy viên, trong đó có 3 nữ ( không được một phần mười “ít quá” như Bác đã nhận xét buổi đầu câu chuyện), đều hứa sẽ thực hiện đúng lời Bác dạy.

(Theo Nhớ lời Bác dạy, Nxb. Lao động, 2001).

 

Người không học thì như đi ban đêm không có đèn

 

Giữa tháng 5 năm 1946, được tin đoàn cán bộ miền Nam ra Bắc đang ở tại nhà ông Bộ trưởng Bộ giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm đoàn. Người hỏi thăm sức khỏe của đoàn và tình hình Nam Bộ. Khi biết chiến trường cán bộ rất cần súng, Người nói: “Thế nào Trung ương và Chính phủ cũng có súng gửi vào Nam. Nhưng nước ta còn nghèo, các cô chú về, phải đánh Pháp cho giỏi, cướp lấy nhiều súng của nó dùng thì cái vốn đó mới nhiều”.

Người hỏi chuyện từng người và căn dặn đồng chí Nguyễn Thị Định: “Cô ở ngoài này học tập một thời gian rồi về tiếp tục kháng chiến với bà con. Người cách mạng phải học tập suốt đời, học lý luận, học quần chúng, học thực tế. Người không học thì như đi ban đêm không cáo đèn, có gậy, dễ vấp té, có phải thế không?”

(Nxb. Văn học giải phóng, 1976)

 

Kiên trì chống lại tuổi già và bệnh tật

 

Sang đến năm 1967, Bác Hồ của chúng ta đã già và yếu đi nhiều. Nhưng ngày ba bữa, Bác vẫn tự mình từ nhà sàn đi bộ xuống nhà ăn. Một phần, không muốn phiền anh em phục vụ, phần nữa, Bác muốn đặt ra cho mình một kỷ luật, buộc mình phải vận động, rèn luyện, chống lại suy yến của tuổi già.

Các đồng chí phục vụ Bác rất áy náy. Phần thương Bác vất vả, ngày nắng còn ngày mưa, phần lo Bác già yếu, chẳng may vấp nã, nếu có chuyện gì thì ảnh hưởng lớn đến công việc của đất nước và của Đảng.

Ngày đó, con đường quanh ao cá chưa được tôn tạo như bây giờ. Sau những trận mưa lớn, đường đi còn ngập nước. Nhưng đến giờ ăn, dù đang còn mưa, Bác vẫn xắn quần quá đầu gối, cầm ô, cùng đồng chí bảo vệ, lội nước đi sang nhà ăn. Nhìn ống chân Bác gầy gò, nổi gân xanh, anh em thương Bác, trào nước mắt, nhưng không sao thuyết phục được Bác cho phép dọn cơm bên nhà sàn.

Bác nói: Các chú muốn chỉ một người vất vả hay muốn cho nhiều người cũng phải vất vả vì Bác.

Có hôm, buổi sớm, Bác vào thay quần áo xong, đến bữa, gặp trời mưa, Bác không muốn các đồng chí phục vụ phải giặt nhiều, Bác cởi quần dài, gập lai, cắp nách, sang đến nơi mới mặc vào. Bác coi mình cũng chỉ là một người phục vụ và xem các đồng chí phục vụ cũng như mình nên không muốn làm phiền ai. Tuy vậy, các đồng chí phục vụ Bác vẫn cố gắng tìm mọi cách để có thể thay đổi tình tình ấy.

Một hôm, Bác gọi cho chị Trần Thị Lý, người con gái miền Nam vào ăn cơm với Bác. Bác mờ vào ngày Chủ Nhật, nhưng hôm đó đồng chí Lý lại đi vắng nên hôm sau chị mới vào được.

Hôm đó, trời mưa rất to. Đồng chí Vũ Kỳ cho dọn cơm ngay bên dưới nhà sàn để Bác ăn cùng chị Lý. Thương chị Lý thương tật, đau yếu, đường mưa trơn, đi lại khó khăn, bữa đó Bác Hồ đồng ý ở lại ăn cơm dưới nhà sàn. Hôm sau, các đồng chí phục vụ lại dọn cơm dưới nhà sàn,mời Bác ăn, coi như đã có một tiền lệ và không thỉnh thị Bác. Nhưng Bác đã cho gọi đồng chí Vũ Kỳ đến và phê bình:

- Các chú muốn để Bác hư thân đi có phải không?

Ý Bác đã rõ, Bác muốn mỗi ngày ba bữa, mỗi bữa ăn, đi vòng quanh hồ một lần, như một kỷ luật với bản thân. Tuổi già, cũng giống như trẻ thơ, muốn được chiều chuộng. Bác biết: nếu dễ dãi với mình và để người khác dễ dãi với mình dần dần sẽ hư thân đi.

Không ai sinh ra đã trở thành lãnh tụ. Muốn trở thành vĩ đại nhân, phải có chí rèn luyện. Làm Chủ tịch nước tồi, trở thành lãnh tụ kính yêu của cả giai cấp và dân tộc rồi, Bác Hồ vẫn không ngừng rèn luyện. Vì vậy, ở vị trí càng cao, càng nổi tiếng, tinh hoa, phẩm chất, đạo đức của Bác càng sáng, càng trong.

(Theo Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị - Hành chính, 2009,tr.219 - 220).

 

 

Có thể cho người nghèo những thứ ấy

 

Khoảng cuối năm 1913, Bác Hồ- lúc bấy giờ gội là Nguyễn Tất Thành - đã đến Luân Đôn - thủ đô của nước Anh. Ở đay có thời gian Bác phải làm phụ bếp cho khách sạn Các-tơn.

Ở khách sạn Các- tơn, hằng ngày có người phục vụ dưới bếp. Những người này, sau khi khách ăn xong, có nhiệm vụ phải thu dọn bát đĩa... và đổ tất cả thức ăn thừa vào một thùng to rồi đem đổ đi. Có những khi thức ăn thừa là một phần tư con gà, hau cả đĩa bánh mì và những miếng bít tết to tướng...

Đến lượt anh Thanh làm phụ bếp, những thức ăn thừa của khách, anh đem để riêng và đậy lại cẩn thận, sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng rồi đưa cho nhà bếp.

Thấy vậy ông đầu bếp Ết-cô-phi-e hỏi lại anh:

-Tại sao anh không đem chúng đổ vào thùng như những người khác?

Anh Thành điềm tĩnh trả lời:

- Không nên đem vứt đi những thứ này. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy.

- Câu nói của anh Thành làm ông đầu bếp rất ngạc nhiên, vì ông thấy từ trước đến nay, chưa có ai ở khách sạn này nghĩ và nói như anh Thành.

Ông chủ bếp và mọi người nhìn anh, biểu hiện một sự quý mến và khâm phục trước tấm lòng yêu thương của anh trước người nghèo khổ.

(Theo Vũ Kỳ- Thư ký của Bác Hồ kể chuyện.

Nxb. Chính trị Quốc gia, H,2005).

 

Hành trang giản dị

Tư trang của một vị Chủ tịch nước như Bác Hồ thật đặc biệt, bởi nó quá giản dị. Có lẽ những thế hệ mai sau khi nghe kể cho đó là một huyền thoại. Đôi dép cao su làm từ lốp cũ xe hơi, Bác dùng đến mòn vét phải đóng đinh bao nhiêu lần mà Bác vẫn dùng, đôi tất vá đến hai, ba lần, cổ áo sờn rách đã mấy lượt lộn trong lại ra ngoài...

Nếp sinh hoạt, cách ăn mặc của Bác đã thành thói quen,Người luôn có ý thức trước những việc làm đó. Từ những năm tháng hoạt động ở nước ngoài, lúc ở Thái Lan, khi về Trung Quốc, về nước thời kỳ bí mật ở Cao Bằng hay khi làm chủ tịch nước, những năm tháng kháng chiến, lúc về thăm nông dân gặt hái hay làm thượng khách ở nước ngoài , Bác luôn luôn với một tư thế giản dị, ung dung, tự tại, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh. Dù ở đâu, lúc nào, Bác cũng để lại ấn tượng tốt đẹp, một phong cách mẫu mực của một lãnh tụ. Hành trang Bác mang theo tự nói lên một điều chân thực: Làm chức càng cao càng phải giản dị. Làm Chủ tịch nước, Bác nhận lấy cho mình cái quyền đượcsống giản dị, bằng mức sống bình thường của người dân. Các đồng chí được giao nhiệm vụ phục vụ Bác,tìm mọi cách để lo cho Bác chu tất về mọi mặt. Nhưng Bác luôn có cái lý của Bác, thời kỳ chiến khu gian khổ Bác bảo chưa cần thiết, khi làm Chủ tịch nước Bác bảo dân còn nghèo.

Nhớ thời kỳ về bước ở hang Cốc Pó, Bác thường vào các bản làng thăm đồng bào, với bộ quần áo chàm, chân đi giày vải, trông như một ông Ké thực thụ. Khi về thủ đô Hà Nội, đọc bản Tuyên ngôn độc lập, các đồng chí trung ương may cho Bác bộ quần áo bằng vải kaki. Thời kỳ kháng chiến, Bác có thêm bộ “quân phục màu xanh”, Bác thương mặc lúc hành quân đi lẫn trong đoàn quân ra trận. Bác còn có thêm chiếc áo len cho ấm về mùa đông, chiếc áo khoác tránh mưa là chiến lợi phẩm của một đơn vị bộ đội tặng Bác. Trời nắng Bác thường dùng bộ “gụ Hà Đông”.Khi bước vào cõi vĩnh hằng, người vẫn mặc bộ quần áo kaki và đôi dép lốp cao su quen thuộc. Thời kỳ kháng chiến, đồ dùng của Bác có chiếc va li nhỏ đựng tài liệu, sách, và máy đánh chữ, quần áo tư trang cho vào một túi nhỏ. Các đoàn thể tặng Bác nhiều tư trang, đồ dùng, Bác thường đem làm tặng phẩm cho cá nhân, tập thể có thành tích hoặc đem bán đấu giá lấy tiền cho cách mạng.

Tư trang của Bác bao giờ cũng ở mức cần thiết cho sinh hoạt, nhưng Bác luôn luôn lo cho sự thiếu, đủ của từng người. Đến thăm thương binh, bác lo từng chiếc áo ấm cho họ. Lúc vào trại tù binh, thấy tù binh thiếu áo, Bác cũng lo áo cho họ, cử ngĩa đó làm bớt đi căng thẳng thù hận giữa con người với con người, của hai dân tộc. Trong gian khổ kháng chiến, Bác cùng chịu đựng đói, no, giá lạnh như người chiến sĩ. Không lo cho riêng mình, Bác lo cho chiến sĩ trước. Bác là người khởi xướng phong trào “mùa đông chiến sĩ” vận động nhân dân không những lo cái ăn mà còn lo cái mặc cho chiến sĩ. Ở hậu phương có ai có thành tích lo cho cái mặc ấm của các chiến sĩ Bác đều gởi thư khen ngợi.

Kháng chiến thắng lợi Bác trở về thủ đô, cách ăn mặc của Bác không thay đổi nhiều lắm. Bác thường dặn các đồng chí phục vụ khigiặt áo cho Bác thấy chỗ nào rách thì vá lại cho bác dùng, cho nên việc khâu vá quần áo cho Bác các đồng chí phục vụ cũng tự làm. Chỉ khi không tự làm được các đồng chí mới xuống nhà may nhờ làm giúp. Số lượng quần áo Bác ít nên phải thay dùng luôn. Bác thường đi nhiều nơi. Khi xuống đồng ruộng gặt lúa, chống hạn với bà con nông dân, quần áo của Bác thường lấm bùn. Khi đến thăm nhà máy, Bác thường xuống tận nơi làm việc của nông dân nên quần áo thường dính dầu mỡ chất xút, những chỗ đó dẫu giặt sạch nhưng cũng nhanh bị bủng. Thay cái mới Bác không chịu, Bác bảo khâu vá lại để Bác dùng. Ở những bộ quần áo đó, những vết mảng, vết vá đều gắn với kỷ niệm.

Thời kỳ Bác đi kháng chiến, trên đường hành quân, trong bộ quần áo xanh, Bác như một người lính, vai thắt bao gạo ngang lưng, mũ cài lá ngụy trang, khăn vắt vai hòa nhịp bước hành quân của bộ đội, dân công đi chiến dịch. Trên đường Bác gặp một ông cụ trong đoàn dân công. Hai người chuyện trò tâm đầu ý hợp, Bác khen ông cụ: “Cụ già còn phục vụ tiền tuyến cho con cháu noi theo”. Cụ kia khen Bác: “Tôi làm sao bì được vơi Cụ, Cụ râu tóc đã bạc mà vẫn chiến sĩ Bạch đầu quân”. Hai cụ vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ, Khi lội qua suối, cụ dân công bị trượt chân, Bác vội đỡ kịp thời nên cụ không bị ngã, nhưng chiếc đỉnh ở đầu đòn gánh vướng vào làm rách áo Bác. Cụ dân công vội cảm ơn: “thật là em ngã anh nâng”. Cả hai cụ cùng cười vui vẻ. Còn vết mạng ở đầu gối là kỷ niệm ở Ngòi Thìa, Tân Trào. Hôm đó Bác đi ngựa, khi đến chỗ vòng ngoặt gấp có cây tre chắn lối, ngựa phi nhanh nên Bác chưa kịp ghìm cương, ngựa dừng đột ngột khiến Bác mất đà bị té ngã nhưng may Bác phản xạ nhanh nên chỉ xước đầu gối. Vết xước bị rách vải và chảy máu. Khi mọi người chưa kịp đến thì Bác đã đứng dậy, chân Bác cà nhắc. Còn vết khâu ở gần gấu áo là lần Bác về chống hạn, Bác cùng đồng chí tỉnh ủy tát nước gầu dai, nhưng đồng chí tỉnh ủy không biết tát nước cứ long ngóng chân tay làm gấu áo Bác bị rách, phải vá lại. Bác bảo “Làm cán bộ lãnh đạo nông nghiệp thì phải biết cách lao động của nông dân”, rồi Bác tập cho đồng chí tát nước.

Có lần Bác đi thăm một nhà máy, Bác xuống tận tổ công nhân đang cho chạy máy, Bác đến hỏi han công việc, chất xút bắn vào áo, tạo thành nhiều vết khác màu áo, Bác bảo đồng chí phục vụ khắc phục làm cho vết xút và màu áo gần giống nhau, và chiếc áo lại dùng được bình thường. Tất cả những áo quần đó đều mang vết nên không thể giấu Bác mà thay cái mới được, thay cái khác là Bác biết, Bác phê bình ngay. Đồng chí Cần, chuyên lo ăn uống, quần áo cho Bác. Đồng chí tâm cỡ người như Bác, đồng chí may vừa là Bác mặc vừa. Quần áo thường ngày Bác thích màu gụ, nên khi may xong đồng chí mang sang xí nghiệp Tô Châu nhuộm gụ. Bộ nào hơi cũ là đồng chí thay bộ khác cùng kiểu, cùng màu nên Bác không biết. Một thời gian sau Bác thấy quần áo vẫn mới. Bác bèn đánh dấu rất kín và phát hiện ra là đồng chí đã đổi quần áo của Bác. Bác liền phê bình, từ đó rất khó thay đổi quần áo của Bác. Áo Bác dùng lâu, giặt đigiặt lại nhiều lần nên cổ áo bị sờn và rách dần, khi mọi người đề nghị Bác cho thay cái mới, Bác bảo “Cả cái áo mới bị sờn chỗ cổ mà vứt đi thì không được, chú chịu khó tháo rồi lộn trong ra ngoài, may lại vẫn lành như mới’. Làm theo ý Bác được mấy lần, sau không thể “khắc phục” được nữa Bác mới cho thay cái mới.

Đôi bít tất Bác đi cũng vậy, bị thủng ở đầu ngón chân Bác cũng bảo vá lại cho Bác dùng, vì không biết làm thế nào nên xuống nhờ các cô ở Bộ nội vụ giúp. Các cô đề nghị thay đổi khác cho Bác nhưng Bác dặn bít tất của Bác chỉ hỏng mũi còn các chỗ khác vẫn nguyên lành, chỉ nhờ các cô khâu lại, nếu đem đổi đôi khác là Bác không dùng đâu. Khi Bác dùng lại đôi tất, khen các cô khéo tay, Bác nói “Chú xem, chỉ cần chịu khó một tí là có một đôi bít tất như mới”. Lần sau, đôi bít tất đó thủng hai chỗ trước và sau, rồi lại lần nữa, các cô phải khâu lại đến ba lần. Bác thường dùng khăn mặt vuông, vì khăn mặt vuông tiết kiệm hơn khăn mặt hình chữ nhật, mỗi khi dùng xong Bác có thói quen phơi lên dây, giữ cho hai phép dưới bằng nhau. Bác tìm mấy hòn quậy nhỏ xếp vào hộp xà phòng, khi dùng xong Bác để xà phòng lên những hòn cuội, xà phòng mau khô, nên tiết kiệm.

Chị Liên là người được đồng chí Cần nhờ may vá giúp Bác Chị kể lại, khi làm việc này mới thực sự hiểu Bac giản dị và tiết kiệm đến chừng nào. Bác có chiếc áo gối vải màu xanh hòa bình, miếng vá này chồng lên miếng vá kia, mỗi lần chiếc áo gối vá lại cho Bác, chị lại không kìm được nước mắt, không cầm vững kim để khâu lại được. Chị nơi với đồng chí Cần “Anh đừng bắt tôi vá áo gối cho Bác nữa. Tôi thương Bác lắm, anh có cách gì thay áo gối cho Bác. Đồng chí Cần nói “ Tôi đã nhiều lần đề nghị Bác thay cái khác nhưng Bác chưa đồng ý. Chị chịu khó vá lại giúp tôi”. Những lúc đó chị hình dung Bác như thấu hiểu long người mẹ hiền ở thôn quê tần tảo lo cho các con từng miếng cơm, manh áo trong cảnh thiếu túng. Báclà hiện thân của người mẹ Việt Nam: Đối với mọi người, dẫu ở vị trí công tác nào Bác cũng giáo dục tinh thần biết quý trọng con người ở ý thức tiết kiệm, đó là thước đo đạo đức của cán bộ. Đối với anh emphục vụ Bác chân tình mà nghiêm khắc trong giáo dục tiết kiệm.

Đôi dép cao su của Bác đã đi vào thơ ca, nhạc họa, hiện thân trong đời sống nhân dân như một huyền thoại, gắn liền với cuộc đời vĩ đại, đức tính giản dị, ý chí kiên cường, bền bỉ cùng dân tộc trên đường trường chinh vạn dặm vì độc lập tự do của Tổ quốc. Đôi dép của Bác được cắt từ lốp ô tô quân sự, chiến lợi phẩm của trận tập kích địch ở Việt Bắc. Đôi dép được cắt vừa chân Bác, hai quai trước to bản kiểu quai vắt chéo, vừa êm vừa chắc chắn khi lội suối, trèo đèo, vượt đường trơn, dốc cao. Thấy tiện, dễ sử dụng lại hiệu quả, Bác cho phổ biến trên toàn mặt trận thay thế dần giày vải, dép rơm, dép mo cau,…Nhân chuyến hành quân đi chiến dịch, Bác thấy ai cũng đi đôi dép cao su vượt suối băng đèo thoăn thoắt, Bác nói vui: “ Như vậy Bác cháu ta cùng có đôi hài cao su vạn dặm, chúng ta muốn đi đâu cũng được.”

Khi về Hà Nội, Bác vẫn dùng dép cao su. Đôi dép Bác dùng lâu ngày vẹt cả đế, quai bị tuột luôn, đóng đinh găm quai nhiều mà vẫn bị tuột, có kiên trì và khéo tay mới làm lại được, khi sửa xong vẫn thấy dùng được là Bác cứ dùng. Thấy dép Bác cũ, hỏng nhiều, các đồng chí phục vụ đề nghị thay đôi khác, Bác không chịu. Anh em bàn “kế hoạch” làm một đôi khác thật giống đôi dép Bác đang đi, chỉ có khác là chắc, bền hơn,lợi dụng thời cơ thay vào.

Hôm đầu Bác đi Bác không nói gì, anh em tưởng việc đã êm, nào ngờ sáng hôm sau Bác hỏisao lại đổi dép của Bác, an hem đành thưa thật với Bác. Bác ôn tồn bảo: “ Các chú biết lỗi nhận lỗi là tốt, đôi dép cũ của Bác nếu chịu khó sửa vẫn dùng được, nếu lần sau mua sắm cái gì cho Bác, các chú phải nói cho Bác biết”. Anh em tưởng Bác nói thế là đã chấp nhận đôi dép, nhưng Bác vẫn giữ đôi dép đó mặc dầu đã sửa nhiều lần, vì nó là kỷ niệm bên Bác từ những ngày gian khổ. Bác còn có một ước mơ nữa là cùng đôi dép đó vào thăm đồng bào miền Nam là Bác thỏa ước nguyện.

Một lần Bác đến thăm một đơn vị hải quân,các chiến sĩ lần đầu gặp Bác, ai cũng muốn được gần Bác nên chen chúc nhau làm tuột quai dép của Bác. Bác bảo chú nào khéo tay sửa lại cho Bác. Ai cũng giành lấy để giúp Bác, thế rồi đôi dép được chuyền tay nhau những không ai sửa được vì đôi dép đã quá vét mòn, đã đóng đỉnh mấy lần rồi, xâu vào nó lại tuột ra. Có người nhanh chân kịp lấy búa và đinh sửa lại cho Bác. Có người yêu cầu Bác đổi dép khác, Bác bảo: “Dép đã sửa xong, khi nào không sửa được hẵng hay, giờ mua đôi khác không cần thiết, vẫn dùng được sao vứt đi, dân ta còn nghèo, mỗi người kể cả Chủ tịch nước cũng phải tiết kiệm.”

Có mẩu chuyện vui về đôi dáp của Bác. Lần đó xem phim, tất cả mọi người ngồi bệt xuống mặt đất, Bác để dép ngay ở phía trước để khi về tiện lấy và không nhầm lẫn. Xem phim xong Bác cùng mọi người chụp ảnh. Cô gái ngồi cạnh Bác thấy đôi dép đã cũ, không biết dép Bác, sợ xấu mất ảnh, vươn người với tới định cất đi. Bác nhanh tay hơn với trước, vội cất ra sau và nói vui: “Ờ đúng rồi, phải giấu nó đi chứ vào ảnh hỏng ảnh mất.”

Bác có thói quen, khi đã đi dép là cúi xuống kéo quai hậu cẩn thận, vừa dễ đi, chắc chắn, dép không kêu làm mất tác phong của người đứng đắn, và dép mòn cũng mòn đều, không mòn vẹt một bên, hai quai trước cũng đỡ hỏng. Ở Bác, đi dép cũng là một nét văn hóa.

Đầu năm 1958, đi thăm Ấn Độ, Bác vẫn đi đôi dép thường ngày. Mọi người trong đoàn thấy thế rất ái ngại nên bàn nhau mang theo một đôi giầy vải. Lên máy bay nhân lúc Bác ngủ, thay đôi dép bằng đôi giày vải. Khi thức giấc Bác hỏi dép, anh em trả lời Bác dép đã để dưới khoang máy bay. Khi xuống sân bay, Bác yêu cầu lấy dép để Bác đi, Bác bảo đừng lo gì cả, đất nước Ấn Độ cũng nghèo như nước mình, mới có độc lập nên còn nhiều vất vả. Bác đi dép có bít tất thế là rất tốt, họ không chê mình đâu. Nhân dịp này Bác muốn gần gũi với nhân dân lao động Ấn Độ. Hôm sau trên các trang báo lớn Ấn Độ đều hết lời ca ngợi Bác là vị Chủ tịch nước dân chủ nhất thế giới, ca ngợi đôi dép Bác Hồ là một huyền thoại. Hôm Bác đến một ngôi chùa, Bác cởi để dép ở ngoài, các phóng viên được dịp tha hồ quay phim, chụp ảnh đôi dép huyền thoại đó.

Lo cho dân, Bác không chỉ ngồi ở bàn giấy rồi nghe báo cáo, mà Bác trực tiếp xuống tận cơ sở đến với từng người lao động để hiểu rõ hơn tình hình thực tế. Đi đâu Bác cũng chỉ dùng xe “Pabeda”do nhân dân Liên Xô gửi tặng. Xe dùng lâu ngày nên đã cũ và hay hỏng vặt, văn phòng đề nghị Bác đổi xe khác tốt hơn, Bác không đồng ý, Bác bảo: “Ai thích đi nhanh, thích êm thì đổi, còn Bác thì không”. Có hôm đến giờ đi công tác, xe không nổ máy được, Bác ôn tồn bảo đồng chí lái xe: “Máy móc cũng có lúc trục trặc. Chú cứ bình tĩnh sửa, sửa xong Bác cháu đi cũng kịp”, mấy phút sau xe mới nổ máy được, Bác cười vui vẻ và nói: “Thế là xe vân còn tốt”.

Ở Bác, tiết kiệm là hành trang trong cuộc đời. Thật cảm động khi biết rằng, bản di chúc của Bác đã đi vào lịch sử dân tộc được Bác viết ở mặt sau tờ tin hàng ngày của Việt Nam Thông tấn xã.

Hành trang của Bác – của một vị lãnh tụ, giản dị như hành trang của một người dân bình thường, bởi Bác sống không chỉ cho riêng mình.

(Theo Bác Hồ - một mẫu mực về sự giản dị vè khiêm tốn,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014)

 

Số tiền nhỏ - Ý nghĩa lớn

Cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào thời kỳ khó khăn. Toàn dân hăng hái mua công trái để ủng hộ kháng chiến.

Ngày mồng 10 tháng 5 năm 1951, Bác Hồ viết thư gửi các cháu học sinh trường Việt Bắc:

Biết các cháu nhịn ăn, quét chợ, hái củi, bán bánh tiết kiệm dành dụm được 216, 445 đồng mua công trái – Bác thân ái gửi lời khen ngợi các cháu nồng nàn yêu nước.

Việc các cháu xung hong làm thì các cháu học sinh trường khác cũng sẽ làm được, số tiền tuy nhỏ nhưng các cháu học sinh ra sức lao động để lấy tiền mua công trái thì có ý nghĩa to.

Bác muốn biết các cháu sinh hoạt như thế nào? Học tập thế nào? Thi đua thế nào? Tăng gia sản xuất thế nào? Bác gửi lời thăm các thầy, cô giáo và cha mẹ các cháu và gửi các cháu nhiều cái hôn.

Bác Hồ

(Bác Hồ với thiếu nhi và phụ nữ,Nxb. Thanh niên, 2018).

 

Một mẫu mực về sự giản dị và khiêm tốn

Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự nghiệp của Người, sự thành lập và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cách mạng tháng tám và những chiến thắng của nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến, công cuộc xây dựng về một xã hội cà cuộc sống mới trong điều kiện khó khăn không thể tưởng tượng nổi…Tất cả những điều đó sẽ được ghi nhớ mãi mãi như những trang đẹp nhất trong lịch sử loài người.

Cho phép tôi được dành một vài phút để nhó lại những kỷ niệm của cá nhân tôi về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xin cho phép tôi được nói về những kỷ niệm hoàn toàn có tính chất cá nhân, bởi vì đối với tôi, Việt Nam có rất nhiều ý nghĩa và trong nhiều năm, Việt Nam nói lên được rất nhiều điều đối với nhân dân Thụy Điển chùng tôi. Tôi đã từng là một học sinh Đại học Y khoa ở Pari trong khoản thời gian rừ năm 1946-1947, tức là vào khoảng thời gian nhân dân Việt Nam đang tiến hành giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến thứ nhất. Tôi đã được thấy chủ tịch Hồ Chí Minh trên lễ đài danh dự ngày 14-7-1946 ở Pari. Các bạn Việt Nam của tôi sau đó có nói rằng, chung quanh Người lúc ấy chỉ có ít người bạn Việt Nam, nhưng lại có quá nhiều kẻ thù, những thành viên của Chính phủ và quân đội đang âm mưu thiết lập lại thuộc địa củaPháp ở Việt Nam.

Lần đầu tôi gặp chủ tịch Hồ Chí Minh là vào thời kỳ tôi đi thăm Việt Nam lần thứ nhất vào đầu năm 1958. Lúc ấy, tôi được Người mời uống trà vào một buổi sáng tại ngôi nhà nhỏ rất giản dị của Người ngay cạnh Dinh Chủ Tịch. Lúc ấy tôi định phỏng vấn Người để dăng báo. Nhưng cuối cùng chính Người là người phỏng vấn tôi trong suốt 45 phút. Người muốn biết nhiều hơn nữa về phong trào công đoàn ở Thụy Điển,…Cuối cùng, Người hỏi tôi rằng điều gì đã tạo ra những ấn tượng sâu sắc nhất cho các nhà văn nước ngoài về các tác phẩm văn học của Thụy Điển. Trước đó vài ngày tôi đã có mặt ở sân bay khi Chủ tịch Hồ Chí Minh có cuộc viếng thăm mang tính chất Nhà nước sang Ấn Độ và Miến Điện. Người vừa xuống sân bay, lập tức các nhân vật trong Chính phủ, Đảng, đoàn ngoại giao đã lập tức vây quanh Người. Chỉ vài phút sau, Người đã đến trước máy phóng thanh. Tôi chờ Người đọc một bài diễn văn, nhưng chủ tịch, như các bạn đã biết, có một sự quan tâm đến công việc sản xuất và đây cũng là điều Người hay nói đến trong các bài viết cúng như diễn văn của mình. Người khoát tay mạnh và nói: “Nào bây giờ các đồng chí có thể về để chuẩn bị công tác cho tốt”. Đây là toàn văn diễn văn của Người. Mọi người cũng vui vẻ và lập tức thi hành mệnh lệnh của Người.

Mùa xuân năm 1967, tôi tham gia Ủy ba Quốc tế gồm năm người đi điều tra về các cuộc ném bom ở miền Bắc Việt Nam lúc ấy đang diễn ra ồ ạt ở khắp mọi nơi. Chúng tôi được thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp. Khi chúng tôi đang lần lượt giới thiệu từng người trong đoàn với Thủ tướng thì bất thình lình, Chủ tịch Hồ Chí Minh có mặt. Tất cả chúng tôi, kể cả đồng chí Phạm Văn Đồng đều rất bất ngờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh ở lại với chúng tôi liền một giờ. Người nói những chuyện hệ trọng trong chiến tranh, thỉnh thoảng Người lại nói đùa về sự được mùa của năm 1890 (một thành viên trong ủy ban của chúng tôi sinh cùng năm với Chủ tịch Hồ Chí Minh). Người pha trò vè những chiếc máy ghi âm tồi tàn mà một trong số thành viên chúng tôi mang theo. Khi anh bạn tôi tìm cách ghi âm lại bức điện gửi nhân dân Mỹ thì cục pin bị tuột lăn lóc trên sàn nhà gây ra tiếng động như tiếng pháo cao xạ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không hề sốt ruột. Người theo dõi chúng tôi cố gắng lắp pin vào máy với sự chú ý và thích thú như một thanh niên trẻ.

Người ta đã nói nhiều rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về sự giản dị và khiêm tốn. Người nói thẳng và dùng từ ngữ đơn giản trong đời sống hằng ngày cũng như trong bài viết và trong các bài diễn văn của mình. Người không bao giờ quên nguồn gốc xuất thân cũng như kinh nghiệm người từng là một người lao động bình thường, Người có những tư tưởng cao thượng và tầm nhìn xa trông rộng. Người không bao giờ quên những nỗi thống khổ mà nhân dân Việt Nam và các dân tộc khácđã phải trải qua dưới áp bức của chủ nghĩa thực dân và áp bức của chủ nghĩa tư bản.

Chúng ta hãy cùng nhau tưởng nhớ nhà cách mạng vĩ đại này bằng cách tăng cường hơn nữa cuộc đấu tranh trên phạm vi toàn thế giới, vì độc lập dân tộc, hòa bình và chủ nghĩa xã hội.

(Theo Hồ Chí Minh, gương Người sáng mãi,Nxb.Văn học,2008)

 

Ba lần gặp Bác, ba bài học lớn

 

Tại buổi giao lưu với tuổi trẻ các lc lượng vũ trang khu vc miền Trung và vùng 3 Hải quaan vào đầu tháng 3-1968, nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang Trần Thị ý đã xúc động kể lại kỷ niệm sâu sắc 3 lần được gặp Bác Hồ. Mỗi lần gặp Bác, theo chị đó là một lần được Người dạy bảo về đạo làm người, truyền thêm sức mạnh và niềm tin, chắp cánh cho chị suốt cả cuộc đời…

Bài học thứ nhất: Sự khiêm tốn không thừa

Tháng 1-1967, sau Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc, Đoàn đại biểu tỉnh Quảng Bình được Bác ưu tiên cho gặp riêng tại phủ chủ tịch hơn 30 phút. Không khí buổi gặp rất ấm cúng. Bác hỏi kỹ hoàn cảnh của từng người, thành tích lập được trong hoàn cảnh nào? Đời sống quê hương ra sao…Người dặn dò cả đoàn: Thành tích của các cô, các chú và các cháu, ngoài sự nỗ lực của cá nhân, còn có sự đóng góp và động viên to lớn của tập thể. Bởi vậy phải hết sức khiêm tốn, học tập phấn đấu thêm, tránh cho bằng được sư kiêu căng tự mãn. Cả đoàn đều rưng rưng, thầm hứa sẽ phấn đấu để xứng đáng hơn nữa, ai cũng mong cho thời gian gặp Bác được dài hơn. Thấy cả đoàn bịn rịn không muốn chia tay Bác, Bác nói: “Ở Quảng Bình có bài “Quảng Bình quê ta ơi” hay lắm- nghe nói cháu Lý có hứa với thủ tướng nếu được gặp Bác sẽ hát riêng cho Bác nghe. Bây giờ hãy hát cho Bác và Thủ tướng cùng nghe”. Chị Lý: “Thưa Bác, được gặp Bác cháu xúc động quá, cho phép cháu được cầm càng cho đoàn Quảng Bình hát tặng Bác và Thủ Tướng”. Bác gật đầu đồng ý…

Bài học thứ hai: Bất cứ việc gì cũng phải làm việc tỉ mỉ, chu đáo.

Tháng 7-1967, đang học văn hóa tại trường văn hóa quân khu, chị Lý nhân được tin vui: ra thủ đô để đi thăm Cu-ba. Trong thời gian làm thủ tục, một vinh dự nữa đến với chị, chị được gặp Bác lần hai.

Đêm trước khi được gặp Bác, chị không sao ngủ được. Sáng hôm sau, chị đã có mặt rất sớm để được đón đến Phủ Chủ Tịch. Vừa xuống xe thì đồng chí Vũ Kỳ thông báo: “Bác cho gọi cháu vào gặp. Bác đang làm cỏ ở vườn, cháu cứ vào”. Mừng quýnh, chị chạy lại chỗ Bác. Người dùng tay, vuốt mồ hôi trên trán và ân cần: “Lý đấy hả cháu, từ sau đại hội đến giờ, về làm những chi mà đen và gầy thế!”. Chị xúc động không nói nên làm, Bác nhanh nhẹn đi về phía nhà sàn. Đứng ngắm Bác không mỏi thấy Bác gài lệch chiếc cúc áo lụa mỏng, chị xin phép gài lại hàng cúc áo cho Bác. Hai Bác cháu ngồi lại dưới sàn. Bác hỏi: “Nghe nói cháu được đi nước ngoài phải không?”. Chị Lý: “Thưa Bác, được đi nhưng cháu lo quá.” Bác hỏi việc chuẩn bị thế nào, khi nghe chị kể được các chú may cho cái áo dài, giày da đen cao gót, những thứ mà chị chưa hề quen sử dụng, còn ngập ngừng và lúng túng lắm. Bác nói: “ Mình đi thăm nước bạn, cũng là để báo cáo kinh nghiệm chiến đấu của mình cho bạn học tập chưa không phải là tiểu thư đi du lịch. Để Bác nói cho chú Song Hào chuẩn bị bộ đồ bộ đội và dép cao su cho cháu”. Bác hỏi kỹ về việc chuẩn bị sổ tay, bút ghi chép. Khi nghe chị nói mang theo cây bút máy mà đại hội tặng, Bác bảo: “ Không được, bút mực không tiện, sang đấy hết mực thì biết lấy ở đâu? Tốt nhất là bút bi,nếu không có bút bi dùng bút chì gọt cả hai đầu”. Ngừng một lát, Bác nói tiếp: “Sang đó cháu phải ghi chép đầy đủ, về còn nói chuyện cho bên nhà nghe”. Bác dặn tiếp: “ Theo kinh nghiệm của Bác tiếp khách quốc tế, không tham nói dài, chuẩn bị cho kỹ nội dung thật xúc tích, dễ nghe, dễ hiểu, không cầu kỳ, kiểu cách”. Rồi như chợt nhớ, Bác hỏi tiếp: “ Ra Hà Nội cháu đi được những đâu, cháu có biết tượng Lý Tự Trọng ở phố nào, quay về hướng nào không?”. Thấy chị lúng túng, Bác quay lại nhắc mấy chú: “Cháu Lý ra Hà Nội, cong nhiều bỡ nhỡ, các chú phải hướng dẫn cho cháu biết Hà Nội có bao nhiêu phố phường, có di tích gì? Cho cháu đi chơi phố phường phải dẫn cháu đi bộ để cháu nhớ, tuyệt đối đừng dùng xe chở vì như thế chỉ như “cưỡi ngựa xem hoa”, không biết và không nhớ được những gì đâu”. Tạm biệt Bác ra về, lòng chị trào lên một nỗi niềm xúc động trước sự chăm lo chu đáo của Bác.

Bài học thứ ba: Tiết kiệm từ thứ nhỏ nhất

Sau chuyến đi Cuba về, Bác cho gọi chị Lý vào ăn cơm cùng, mâm cơm giản dị gồm có một tô canh bí đao, một đĩa cá bống nhỏ và một đĩa thịt gà. Bác nói vui: “ Hôm nay có khách, Bác giết gà để đãi khách đấy”. Trong bữa ăn, Bác luôn miệng giục và gắp thịt gà cho chị. Đang ăn cơm có báo động, bác cháu lại phải xuống hầm. Bữa cơm gián đoạn đến mấy lần. Khi đơm cơm cho Bác, chị sơ ý làm rơi mấy hạt cơm ra mâm, Bác nhặt lên cho vào bát và quay sang hỏi chị: “Quê mình bây giờ còn dùng đá để đập hạt sần(ngô) không!”. Chị thưa: “Có nơi còn dùng nhưng đại đa số nhân dân đã dùng công cụ khác như máy xay, cối xay tay.” Tuy không nói ra nhưng chị hiểu ý Bác nhắc nhở: Dân mình còn nghèo, phải hết sức tiết kiệm, hạt gạo là hạt ngọc chớ để lãng phí. Ăn cơm xong, Bác hỏi: “ Cháu học lớp mấy, đã biết đọc bản đò chưa? Ở Quảng Bình nơi nào bị đánh phá ác liệt nhất, cháu chỉ cho Bác xem”. Thấy chị lúng túng, Bác bảo: “Phải cố mà học, cán bộ quân sự phải biết bản đồ, còn phải hướng dẫn cho chiến sĩ”. Trước khi chia tay, Bác dặn dò: “Được đi thăm Cuba, được gặp Bác, được ăn cơm với Bác, về công tác cho tốt lập thành tích xuất sắc hơn, lần sau ra báo cáo thành tích Bác cho gặp nữa…”

(Theo Tạp chí Nhân chứng và sự kiện,

Số 53, tháng 5-1998)

 

Nghĩa nặng tình sâu

 

Năm 1957, Bác Hồ trở về thăm quê hương. Từ xa trên con đường đất đỏ, mọi người nhìn thấy xe Bác đến vừa đến vừa vỗ tay hoan hô vừa reo hò rộn rã.

Xe đến, Bác xuống vẫy chào bà con đến đón. Các cháu thiếu nhi ùa ra vây quanh Bác.

Các đồng chí lãnh đạo địa phương định đưa Bác vào nhà khách trước, nhưng Bác đã ngăn lại và nói:

- Tôi xa nhà, xa quê đã lâu, nay mới có dịp về, tôi phải về nhà tôi trước.

Nói rồi, Bác đi thẳng về ngôi nhà quê nôi. Bác dừng lại trước ngõ mớilàm, đưa mắt nhìn bao quát khu vườn quen thuộc một lượt, rồi Bác đi men theo hàng rào râm bụt.

Bác bảo:

-Trước đây đường vào nhà tôi đi theo ngõ này.

Vào đến sân, Bác nhìn ngôi nhà tranh quen thuộc của gia đình mình đã được đồng bào địa phương dựng lại trên nền đất cũ và nói:

- Tôi nhớ chỗ này còn có hàng cây.

Sau đó, Bác đi ra cửa sau chỉ vào chỗ hàng rào nói:

-Nhà tôi trước có cây ổi ngọt ở đây quả sai lắm.

Khi ra ngõ gặp một cụ già, Bác nhìn cụ rất cảm động và hỏi:

-Có phải ông Điền không?

Bác đi nhanh tới cụ già và nắm lấy tay cụ hỏi bằng một giọng ấm áp:

- Anh Điền, anh vẫn khỏe chứ?

Bác nói chuyện với cụ Điền một hồi lâu, rồi sau đó đi sang quê ngoại.

Đứng giữa ngôi nhà tranh đơn sơ, nơi Bác đã sinh ra và lớn lên, Bác thân mật cùng trò chuyện cùng bà con quê nhà.

-Tôi xa quê hương đã năm mươi năm rồi. Thường tình người taxa nhà, lúc tr về thường mừng mừng, tủi tủi. Nhưng tôi không buồn, không tủi. Tôi rất vui. Vui vì khi toi ra đi nhân dân còn là nô lệ, bị bọn đè quốc phong kiến đè đầu cưỡi cổ. Bây giờ tôi về đất nước đã được giải phóng, nhân dân đã được tự do.

Nói xong Bác đọc hai câu thơ: Quê hương nghĩa nặng tình sâu/Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình.

(Theo Vũ Kỳ, Thư ký Bác Hồ kể chuyện

Nxb. Chính trị quốc gia,2005)

 

Bác Hồ trong trái tim người Cơ Tu

Mùa thu năm 1964, tôi là thành viên trong Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Namdo đồng chí Trần Văn Thành dẫn đầu, ra thăm miền Bắc và dự hội nghị Quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam.

Một buổi sáng tháng Mười, xe đưa chúng tôi vào Phủ Chủ Tịch. Giữa lòng Thủ đô mà cảnh vật có những nét giống núi rừng quê hương.

Đoàn chúng tôi vừa xuống xe đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân. Bác ôm hôn thắm thiết đồng chí Trần Văn Thành và từng người trong đoàn.

Chúng tôi xúc động và tràn ngập vui sướng theo chân Bác đến dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa thơm và nắng ấm. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc Cơ Tu, Bác cười bảo:

-Cháu đúng là con gái dân tộc, giữ được bản sắc dân tộc mình.

Bác bảo tôi ngồi cạnh Bác. Vui mừng, sung sướng và xúc động xen lẫn lòng tôi. Lần đầu tiên được gặp Bác, chúng tôi không ngăn nổi xúc động. Chị Ngần, chị Cao và tôi đều bật khóc. Bác dịu dàng nhìn chúng tôi và nói:

-Các cháu gái đừng khóc, gặp Bác thì phải vui chứ. Các cháu hãy kể chuyện đánh Mĩ của bà con ta ở tiền tuyến cho Bác nghe.

Chúng tôi lau nhanh nước mắt. Cả đoàn chúng tôi quây quần bên Bác. Bác rơm rớm nước mắt khi nhìn em Hồ Văn Bột mang đầy thương tích do bom napan của giặc Mĩ gây nên. Bác âu yếm bảo em Bột hãy giữu gìn sức khỏe và tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ ở miền nam cho toàn thế giới biết.

Rời Bác quay sang tôi, trìu mến hỏi:

-Cháu là người dân tộc Cơ Tu, cháu có biết nói tiếng Khinh không?

-Dạ, thưa Bác, cháu nói được tiếng Kinh ạ.- tôi lễ phép đáp.

Bác bảo tôi kể cho Bác nghe tình hình sản xuất và chiến đấu của đồng bào, tình hình đời sống của bà con dân tộc về phong trào thanh niên, phụ nữ, bộ đội du kích ở vùng người Cơ Tu,Ve, nơi tôi sinh sống và hoạt động.

Tôi thưa tiếp Bác là đồng bào Cơ Tu cũng như đồng bào các dân tộc khác rất mong muốn đất nước được độc lập, thống nhất, Bc Nam sum họp một nhà để được sm đón Bác vô.

Nghe theo lời kêu gọi của Bác, tất cả đồng bào các dân tộc không ngại gian khổ, không tiếc hy sinh, không giữ chồng con, mọi người kiên quyết chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc. Bác chú ý lắng nghe tôi kể những mẩu chuyện. Ánh mắt Bác càng vui khi tôi kể những gương chiến đấu dũng cảm, mưu trí của các thanh niên, thiếu niên cùng các cô, bác đánh giặc, lập nhiều chiến công xuất sắc. Bác khen ngợi đồng bao, bộ đội, cán bộ các dân tộc, các cụ phụ lão, các cháu thiếu nhi và nhi đồng miền Nam luôn đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu anh dũng, thắng lợi vẻ vang. Bác nói:

-Cuộc kháng chiến của đồng bào ta chống giặc Mỹ xâm lược là toàn dân, toàn diện. Tre, già, gái, trai đều đánh giặc giỏi, sản xuất giỏi, đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đều giỏi.

Sống giữa không khí đầm ấm chan hòa tình thương bao la của Bác đối với quân và dân miền Nam, những kỷ niệm về tấm lòng của bà con các dân tộc đối với Bác gi đây dồn dập, trỗi dậy trong tim tôi.

Cây rừng bao nhiêu lá thì đồng bào và phụ nữ các dân tộc đối với Bác có bao nhiêu ân tình. Tấm lòng của đồng bào các dân tộc đối với Bác bao giờ cũng trong như dong nước Đắc Pring, mãi chảy xuôi về dòng.

Gần một tiếng đồng hồ, Bác thân mật tiếp chúng tôi. Bác ân cần hỏi thăm từng người như người cha đối với đàn con yêu quý lâu ngày mới gặp lạ. Bác dàng phần lớn thời gian còn lại hỏi tỷ mỉ về tình hình đời sống, chiến đấu, sản xuất. Tôi hiểu đó là Bác dành tình thương yêu mênh mông của Bác cho đồng bào miền Nam đang đoàn kết một lòng, chiến đấu với giặc Mỹ đến cùng.

(Theo Bác Hồ với đất Quảng, Nxb.Chính trị quốc gia,2000)

 

Giờ này miền Nam nổ sung

Tết Mậu Thân năm 1968 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuốc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.

Tết năm ấy, do điều kiện sức khỏe, Bác Hồ đi nghỉ và chữa bệnh ở nước ngoài. Tuy ở xa Tổ quốc nhưng Bác luôn luôn theo dõi sát những thành tích và thắng lợi của đồng bào chiến sĩ cả nước, nhất là những tin chiến thắng từ chiến trường miền Nam.

Tối hôm 30 Tết, Bác cùng đồng chí giúp việc ngồi trong căn phòng vắng để theo dõi tin tức trên đài và đón giao thừa. Khi nghe đài tiếng nói Việt Nam tiếng pháo nổ tiễn năm Đinh Mùi và mừng năm Mậu Thân vừa dứt thì thơ chúc Tét của Bác được truyền đi khắp mọi miền của Tổ quốc:

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua

Thắng trận tin vui khắp nước nhà

Nam-Bắc thi đua đánh giặc Mỹ

Tiến lên!Toàn thắng ắt về ta!

Bác Hồ yên lặng đón giao thừa. Tiếng Bác trên đài hòa cùng tiếng nhác hùng tráng như một nguồn động viên lớn lao với chiến sĩ cả nước.

Từ trong căn phòng nhỏ ấy, lời Bác nói một cách khe khẽ nhưng nghe rất rõ: “Giờ đây miền Nam đang nổ súng”.

Thì ra trong lúc này, không phải Bác chỉ ngồi để nghe tiếng pháo nổ, mừng năm mới mà chính Bác đang hướng về Tổ Quốc, hướng về đồng bào chiến sĩ đang chiến đấu hi sinh ngoài mặt trận.

Sang sớm hôm mồng một Tết Mậu Thân, Bác nhận được tin “ Cả miền Nam đều nổ sung”. Kẻ thù hung ác của dân tộc bị một đòn đau bất ngờ, choáng váng.

Bác Hồ vui trong niềm vui chiến thắng của chiên sĩ, đồng bào cả nước.

(Theo Thư ký Bác Hồ kể chuyện- Vũ Kỳ,Nxb.Chính trị Quốc gia,2005)

 

Thời gian quý báu lắm

 

Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khoá V Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ là 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người vẫn chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm”.Cũng về giờ giấc, trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí sĩ quan cấp tướng đến làm việc với Bác chậm 15 phút, tất nhiên là có lý do: Mưa to, suối lũ, ngựa không qua được. Bác bảo: 

-Chú làm tướng mà chậm đi mất 15 phút thì bộ đội của chú sẽ hiệp đồng sai bao nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan không chuẩn bị đủ phương án, nên chú không giành được chủ động”.

Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ đến để bắt đầu cuộc họp. 

Bác hỏi: 

-Chú đến muộn mấy phút?

- Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!

- Chú tính thế không đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.

Năm 1953, Bác quyết định đến thăm lớp chỉnh huấn của anh em trí thức, lúc đó đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Sắp đến giờ lên đường bỗng trời đổ mưa xối xả. Các đồng chí làm việc bên cạnh Bác đề nghị cho hoãn đến một buổi khác. Có đồng chí còn đề nghị tập trung lớp học ở một địa điểm gần nơi ở của Bác… Nhưng bác không đồng ý: 

- Đã hẹn thì phải đến, đến cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì đến bao giờ? Thà chỉ mình bác và vài chú nữa chịu ướt còn hơn để cả lớp phải chờ uổng công!

Thế là Bác lên đường đến thăm lớp chỉnh huấn đúng lịch trình trong tiếng reo hò sung sướng của các học viên…Bác Hồ của chúng ta quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời Bác không để bất cứ ai đợi mình. Sự quý trọng thời gian của Bác thực sự là tấm gương sáng để chúng ta học tập.

 

Đôi dép Bác Hồ - Lối sống giản dị

Đôi dép của Bác “ra đời’’ vào năm 1947, được ‘’chế tạo’’ từ một chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc. Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.

Trên đường công tác, Bác nói vui với các cán bộ đi cùng:

- Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa... Đôi hài thần đất, đi đến đâu mà chẳng được.

Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép...

Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy... Các chiến sĩ cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xinBác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được.

Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì mọi người trong tổ cảnh vệ lập mẹo dấu dép đi, để sẵn một đôi giầy mới...

Máy bay hạ cánh xuống Niu-đê-li, Bác tìm dép. Mọi người thưa:

- Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi... Thưa Bác....

- Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn, nhân dân ta còn khó khăn, Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự - Bác ôn tồn nói.

Vậy là các anh chiến sĩ phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi...

Trong suốt thời gian Bác ở Ấn Độ, nhiều chính khách, nhà báo, nhà quay phim... rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép... làm tổ cảnh vệ lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy.

Năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên” ấy, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Các chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác hơn. Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:

- Thôi, các cháu dẫm làm tụt quai dép của Bác rồi...

Nghe Bác nói, mọi người dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên:

- Thưa Bác, cháu, cháu sửa...

- Thưa Bác, cháu, cháu sửa được ạ...

Thấy vậy, các chiến sĩ cảnh vệ trong đoàn chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh sửa mấy lần rồi...Bác cười nói:

- Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ! Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra:

- Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác...Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên cạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến... 

Bác phải giục:

- Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ.Anh chiến sĩ, lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:

- Cháu, để cháu sửa dép...Mọi người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong.Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn:

- Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ...

Bác nhìn các chiến sĩ nói:\

- Các cháu nói đúng... nhưng chỉ đúng có một phần... Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì nó còn ‘’thọ’’ lắm! Mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên... Ta phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo..

Ba chiếc ba lô - Sự công bằng

 

Trong những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công tác, có hai đồng chí đi cùng. Vì sợ Bác mệt, nên hai đồng chí định mang hộ ba lô cho Bác, nhưng Bác nói:

- Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít.
Khi mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 ba lô rồi, Bác còn hỏi thêm:

- Các chú đã chia đều rồi chứ?Hai đồng chí trả lời:

- Thưa Bác, rồi ạ.Ba người lên đường, qua một chặng, mọi người dừng chân,Bác đến chỗ đồng chí bên cạnh, xách chiếc ba lô lên.

- Tại sao ba lô của chú nặng mà Bác lại nhẹ?Sau đó, Bác mở cả 3 chiếc ba lô ra xem thì thấy ba lô của Bác nhẹ nhất, chỉ có chăn, màn. Bác không đồng ý và nói:

- Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.Hai đồng chí kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc ba lô.

 

Giữ lời hứa

 

Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, là người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh của Người được lưu giữ trong trái tim mỗi người Việt Nam. Hơn bốn mươi năm Bác đã đi xa nhưng Bác vẫn mãi là tấm gương sáng cho hàng triệu người dân Việt Nam và thế giới.

Hồi ở Pác Pó, Bác Hồ sống rất chan hòa với mọi người. Một hôm được tin Bác đi công tác xa, một trong những em bé thường ngày quấn quýt bên Bác chạy đến cầm tay Bác thưa:

- Bác ơi, Bác đi công tác về nhớ mua cho cháu một chiếc vòng bạc nhé! 
Bác cúi xuống nhìn em bé âu yếm, xoa đầu em khẽ nói:

- Cháu ở nhà nhớ ngoan ngoãn, khi nào Bác về Bác sẽ mua tặng cháu. 
Nói xong Bác vẫy chào mọi người ra đi. Hơn hai năm sau Bác quay trở về, mọi người mừng rỡ ra đón Bác. Ai cũng vui mừng xúm xít hỏi thăm sức khỏe Bác, không một ai còn nhớ đến chuyện năm xưa. Bỗng Bác mở túi lấy ra một chiếc vòng bạc mới tinh trao tận tay em bé – bây giờ đã là một cô bé. Cô bé và mọi người cảm động đến rơi nước mắt. Bác nói:

- Cháu nó nhờ mua tức là nó thích lắm, mình là người lớn đã hứa thì phảilàm được, đó là "chữ tín". Chúng ta cần phải giữ trọn niềm tin với mọi người.

 Ảnh minh họa

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video