Thực trạng tiếp cận và thụ hưởng chính sách của phụ nữ dân tộc thiểu số: Những vấn đề cần quan tâm
Ảnh minh họa (Nguồn: LĐXH) I. Tình hình tiếp cận và thụ hưởng chính sách của phụ nữ dân tộc thiểu số
Việt Nam là quốc gia đa sắc tộc với 54 nhóm dân tộc cùng sinh sống, trong đó có 53 nhóm dân tộc thiểu số. Vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) chiếm gần ba phần tư diện tích tự nhiên của cả nước, là địa bàn cư trú chủ yếu của 53 dân tộc thiểu số (DTTS) với 14,12 triệu người trong đó phụ nữ dân tộc thiểu số có gần 7,1 triệu người, chiếm 49,9% người dân tộc thiểu số. Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến phụ nữ nói chung, phụ nữ DTTS nói riêng nhằm thúc đẩy, nâng cao địa vị người phụ nữ và phát huy vai trò của họ trong gia đình và xã hội nhờ các chính sách phát triển chung của Nhà nước và các chính sách đặc thù riêng (như chính sách cho phụ nữ DTTS sinh con đúng kế hoạch, đề án hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng DTTS, giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong vùng đồng bào DTTS...). Điều này được thể hiện qua những con số của kết quả điều tra thực trạng kinh tế xã hội 53 dân tộc thiểu số, cụ thể như:
Về chính trị: tỷ lệ phụ nữ tham chính ngày càng tăng lên. Quốc hội Khóa XIV: đại biểu người DTTS 86 người (17,30%) cao hơn so với Quốc hội khóa XIII (tỷ lệ 15,60%), trong đó tỷ lệ nữ là 36 người (chiếm 42% đại biểu DTTS). Khoá XV: Đại biểu nữ là 151/499 người (chiếm 30,26%), 44 người là phụ nữ DTTS (chiếm 8,8% so với tổng số đại biểu Quốc hội và 49,43% so với tổng số đại biểu Quốc hội là người DTTS (44/89).
Tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông: 75,1% phụ nữ DTTS biết đọc, biết viết tiếng phổ thông; tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ sinh con tại cơ sở y tế đạt 86,4%; Gần 80% phụ nữ DTTS tham gia lực lượng lao động, trong đó gần 9% được đào tạo, có bằng cấp chứng chỉ…
Tỷ lệ phụ nữ sinh con tại các cơ sở y tế: Tỷ lệ phụ nữ DTTS (10-49 tuổi) khi mang thai đến cơ sở y tế thăm khám đạt 88,0%.
II. Khó khăn và những vấn đề đặt ra trong tiếp cận và thụ hưởng chính sách của phụ nữ DTTS
Tuy nhiên, phụ nữ DTTS vẫn còn nhiều hạn chế và gặp không ít rào cản, khó khăn trong tiếp cận và thụ hưởng các chính sách. Họ là những đối tượng thiệt thòi hơn về khả năng tiếp cận các cơ hội, các nguồn lực, do các chuẩn mực xã hội thường áp đặt cho phụ nữ vị trí thấp kém hơn, và giới hạn họ ở các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2.1. Khó tiếp cận giáo dục và đào tạo
Nhiều phụ nữ DTTS khó tiếp cận với hệ thống giáo dục phổ thông. Tỷ lệ phụ nữ DTTS biết đọc, biết viết còn thấp: Phụ nữ và trẻ em gái DTTS biết đọc, biết viết chữ phổ thông ít hơn đáng kể so với nam giới DTTS và phụ nữ người Kinh. Đáng chú ý là ở các nhóm tuổi càng cao thì khoảng cách giới (tỷ lệ nữ so với nam) cũng càng lớn, nếu ở nhóm từ 15- dưới 18 tuổi, khoảng cách giới là -2,4 điểm %; thì đến nhóm tuổi 35-44 tuổi đã tăng lên -13,5 điểm % và ở nhóm từ 65 tuổi trở lên là -24,4 điểm %. Một số DTTS có tỷ lệ phụ nữ và trẻ em gái biết đọc, biết viết chữ phổ thông rất thấp như Lự 32,5%, La Hủ 37,8%, Mảng 39,0% và Mông 39,4%. Trong số 53 dân tộc thiểu số, có tới hơn 20% phụ nữ không biết đọc, biết viết, tập trung chủ yếu ở các tộc người cư trú vùng cao, vùng biên giới. Tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật còn thấp, chỉ khoảng hơn 10%.
Không biết tiếng phổ thông, mù chữ dẫn tới nhiều hệ lụy trong cuộc sống mà người phụ nữ DTTS đang phải gánh chịu. Nguyên nhân của thực trạng này là khó khăn về điều kiện địa lý, những rào cản trong văn hóa dân tộc người khiến phụ nữ phải dành hầu hết thời gian để lao động sản xuất, làm việc nhà, chăm sóc con cái mà ít có cơ hội được hoạt động, giao tiếp trong cộng đồng.
Mặt khác, phụ nữ DTTS vốn đã quen môi trường giao tiếp bằng tiếng “mẹ đẻ”. Trong điều kiện giao tiếp chủ yếu bằng tiếng dân tộc, sống trong cộng đồng tộc người khá cách biệt với bên ngoài, phụ nữ DTTS ít có cơ hội giao tiếp bằng tiếng phổ thông nên nhiều hoạt động của họ phải thông qua người nam giới, cũng vì thế, phụ nữ DTTSngày càng lệ thuộc nhiều hơn vào vai trò của nam giới - cả trong cuộc sống cá nhân và gia đình. Mù chữ đi cùng với không biết tiếng phổ thông, hạn chế trong giao tiếp với người ngoài cộng đồng dẫn tới người phụ nữ DTTS thường tự ti, không mạnh dạn tham gia các hoạt động xã hội và khó tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đây là một trong những rào cản lớn đối với sự phát triển của phụ nữ DTTS hiện nay. Điều đó đồng nghĩa với việc họ gặp khó khăn trong tiếp nhận những tiến bộ khoa học kỹ thuật hay các chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển của Chính phủ đối với cá nhân và gia đình họ.
2.2. Thu nhập thấp; khó tiếp cận các cơ hội về việc làm trả lương
Những khó khăn trong tiếp cận giáo dục đã dẫn tới tỷ lệ phụ nữ DTTS làm công việc chuyên môn kỹ thuật rất thấp, đa số làm công việc phổ thông, giản đơn. Theo báo cáo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (World Bank) năm 2019 về động lực phát triển kinh tế xã hội giữa các nhóm DTTS ở Việt Nam, chỉ 17% phụ nữ DTTS có việc làm được trả lương, kém 15 điểm phần trăm so với nam giới cùng cộng đồng và thấp hơn 5 điểm phần trăm so với nữ giới thuộc dân tộc Kinh. Thu nhập từ các công việc được trả lương bình quân năm chỉ là 3.531 triệu đồng, thấp hơn 1.543 triệu so với nam giới DTTS và 2.153 triệu so với phụ nữ dân tộc Kinh.
Lao động nữ DTTS làm các công việc không ổn định, dễ bị tổn thương hơn so với lao động nam DTTS và lao động nữ người Kinh. Có tới 76,4% việc làm của lao động nữ DTTS trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, cao hơn gần 6 điểm phần trăm so với lao động nam DTTS (70,5%) và cao gấp đôi so với lao động nữ cả nước (35,9%). Có 24/53 DTTS có tỷ trọng việc làm của lao động nữ trong nông, lâm nghiệp chiếm trên 90%. Về vị thế trong việc làm, tỷ lệ lao động nữ DTTS làm các công việc “Lao động gia đình không hưởng lương” là 52,0%, cao gấp gần 2 lần so với tỷ lệ này của lao động nam DTTS là 26,6% và cao gấp hơn 2,5 lần so với lao động nữ cả nước 19,4%. Đây là nhóm công việc không ổn định, thu nhập thấp, điều kiện làm việc kém hơn so với việc làm ở các khu vực khác và không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp và BHYT. Có nhiều rào cản đối với lao động nữ DTTS trong dịch chuyển việc làm ra khỏi khu vực nông-lâm nghiệp và tiếp cận công việc làm công ăn lương tại các nhà máy, doanh nghiệp tại địa phương, các khu công nghiệp trong nước hoặc đi làm việc ở nước ngoài.
Nguyên nhân của những khó khăn trên là do: trong mối quan hệ gia đình, nam giới vẫn có địa vị cao hơn phụ nữ; phân công lao động gia đình đã và đang đặt gánh nặng quá lớn lên vai người phụ nữ. Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 01/4/2019 cho thấy, phụ nữ thuộc một số nhóm dân tộc thiểu số phải làm việc nhà không lương đến 9 giờ mỗi ngày so với 5 giờ ở phụ nữ Kinh), những định kiến truyền thống về vai trò của nam - nữ khiến phụ nữ DTTS gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận thị trường và ra các quyết định liên quan đến sinh kế; tình trạng phụ nữ DTTS mù chữ, tái mù chữ cao, không giao tiếp được bằng ngôn ngữ phổ thông, trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo chuyên môn kỹ thuật còn phổ biến; thiếu kỹ năng cơ bản để di cư lao động an toàn và hiệu quả (như: thiếu hiểu biết về luật pháp, chính sách về lao động, việc làm; thiếu các kỹ năng giao tiếp, công nghệ thông tin)...
2.3. Khó tiếp cận tín dụng chính thức để phát triển sinh kế, hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều nguồn vốn ưu đãi đã được dành cho người dân vùng đồng bào DTTS&MN để hỗ trợ phát triển sản xuất và xóa đói giảm nghèo, tuy nhiên, kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTD năm 2019 cho thấy, phụ nữ DTTS đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ các sản phẩm truyền thống ở vùng DTTS&MN, nhưng tỷ lệ hộ DTTS do phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội năm 2019 chỉ đạt khoảng 15% thấp hơn gần 5 điểm phần trăm so với tỷ lệ tương ứng của hộ gia đình DTTS do nam giới làm chủ hộ là 20,7%. Giá trị khoản vay của hộ DTTS do phụ nữ làm chủ hộ thấp hơn so với hộ gia đình DTTS do nam giới làm chủ hộ (ví dụ: hộ DTTS được vay vốn với mức vay từ 51 triệu đồng trở lên thì tỷ lệ chủ hộ là nam giới cao hơn chủ hộ là nữ giới nam 7.5%, nữ 6,2%; nhưng trái lại ở mức vay dưới 20 triệu đồng thì tỷ lệ chủ hộ là nam giới thấp hơn đáng kể so với chủ hộ là nữ giới tương ứng là 27,1% và 35,0%). Nguyên nhân do: các cơ sở/hộ sản xuất - kinh doanh - dịch vụ do nữ làm chủ hộ có quy mô nhỏ nên chưa có nhu cầu vay các khoản vốn lớn; năng lực của các nữ chủ hộ DTTS về lập hồ sơ vay vốn, phương án sản xuất kinh doanh còn hạn chế nên chưa tiếp cận được những khoản vay giá trị lớn; cơ sở, hộ sản xuất - kinh doanh - dịch vụ nhỏ, không có đầy đủ sổ sách, chứng từ giao dịch và báo cáo tài chính nên không đáp ứng điều kiện vay vốn không cần bảo đảm tiền vay.
2.4. Tiếp cận các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe của phụ nữ DTTS còn khoảng cách lớn
- Hiện nay vấn đề tảo hôn, hôn nhân cận huyết vẫn tồn tại dai dẳng ở vùng DTTS và miền núi: Tỷ lệ trẻ em kết hôn trước 18 tuổi ở người DTTS cao gấp hơn nhiều lần so với người Kinh (23,1% so với 9,2% ở người Kinh). Theo Tổng Điều tra Dân số 2019, các dân tộc Lô Lô, Mông, Khơ Mú, Xinh Mun, Hrê, Gia Rai, Brâu là các dân tộc thiểu số có tỷ lệ phụ nữ từ 20-24 tuổi kết hôn sớm cao nhất cả nước, cá biệt như dân tộc Mông thì tỷ lệ này lên tới 48%. Tỷ lệ trẻ em gái DTTS mang thai ở tuổi vị thành niên cao (116/1000 em tuổi 15-19). Hôn nhân cận huyết tuy đã giảm nhưng ở một số dân tộc tỷ lệ này vẫn cao: Mạ (4,41%), Mảng (4,36%), Mnông (4,02%), Xtiêng (3,67%), có một số dân tộc tỷ lệ này đến 10% (Lô Lô, Hà Nhì, Phù Lá, Chứt, Mông, Ê Đê, Chu ru, Pu péo, Si la, Rơ măm, Bờ Râu,..).
Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe phụ nữ; đồng thời làm giảm chất lượng giống nòi, chất lượng dân số. Việc kết hôn sớm, mang thai và sinh đẻ trong lứa tuổi vị thành niên, khi cơ thể người mẹ chưa phát triển hoàn thiện, thiếu hiểu biết, kinh nghiệm và chưa sẵn sàng về mặt tâm lý để mang thai và sinh con gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe bà mẹ, sự phát triển bình thường của thai nhi và trẻ sơ sinh. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới đói nghèo kéo dài, những gia đình kết hôn cận huyết thống với gắng nặng kinh tế sẽ có ít cơ hội cho con cái học tập và bản thân người phụ nữ ít được tham gia học tập, những khóa tập huấn, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng, dẫn đến hạn chế trong việc tiếp cận với những chương trình chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước.
- Phụ nữ DTTS cũng khó tiếp cận với các dịch vụ y tế, đặc biệt là trong chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em: Ở Việt Nam, hệ thống cơ sở khám, chữa bệnh cho nhân dân được phân thành 4 tuyến chuyên môn, kỹ thuật gồm: Tuyến trung ương; Tuyến tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tuyến huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; và Tuyến xã, phường, thị trấn. Tuyến xã, phường, thị trấn là tuyến y tế cơ sở bao phủ rộng khắp các địa bàn trong cả nước, đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, thực hiện các nội dung của chăm sóc sức khỏe ban đầu, các chương trình mục tiêu về y tế, nhất là việc khám, chữa bệnh cho người dân khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Hiện nay cả nước có 11.400 trạm y tế xã bao gồm cả mạng lưới y tế thôn bản; gần 99% xã, phường và thị trấn đã có nhà trạm; 87,5 % trạm có bác sĩ khám chữa bệnh; 97% có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi; gần 75% thôn, bản, tổ dân phố có nhân viên y tế hoạt động, trong đó ở nông thôn, miền núi là 96% và gần 80% trạm y tế xã thực hiện khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Nhờ vậy, công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cơ bản đã được triển khai rất hiệu quả, sâu rộng, như: tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, dân số - kế hoạch hóa gia đình. Tuy nhiên, ở các vùng DTTS&MN, tỷ lệ xã có trạm y tế xã đạt chuẩn còn thấp (chiếm 45%); chỉ có 69,2% số trạm y tế ở vùng đồng bào DTTS&MN có bác sỹ khám chữa bệnh cho người dân. Chỉ 20% trạm y tế xã đạt chuẩn y tế giai đoạn 2011-2020. Sự hạn chế của dịch vụ y tế là một những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế của phụ nữ dân tộc thiểu số.
- Tỷ lệ phụ nữ DTTS sinh con tại nhà và không có cán bộ chuyên môn đỡ: Trong những năm qua nhờ sự nỗ lực của các cấp các ngành, mạng lưới y tế cơ sở được đầu tư xây dựng nên đã kéo giảm tỷ lệ phụ nữ DTTS từ 10-49 tuổi sinh con tại nhà và không có cán bộ chuyên môn đỡ năm 2019 xuống còn 9,5%. So với năm 2015, tỷ lệ này đã giảm mạnh tới -26,8 điểm phần trăm (năm 2015 tỷ lệ này là 36,3%). Tuy nhiên vẫn còn nhiều DTTS có tỷ lệ phụ nữ sinh con tại nhà và không có cán bộ chuyên môn đỡ cao, như: Mảng 50,6%, Cống 37,0%, La hủ 36,5% và La Ha 30%. Đối với dân tộc Mông, mặc dù tỷ lệ phụ nữ sinh con tại nhà vẫn rất cao (50,3%), nhưng trong đó đã có 11,5% phụ nữ sinh con tại nhà được cán bộ chuyên môn giúp đỡ.
- Khám chữa bệnh sử dụng thẻ bảo hiểm y tế: Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy, mới có 46,8 % phụ nữ DTTS sử dụng thẻ BHYT khám chữa bệnh. Việc phụ nữ một số DTTS chưa sử dụng thẻ bảo hiểm y tế là do họ không thông thạo tiếng phổ thông, e ngại khi đi khám, chữa bệnh và phải phụ thuộc vào chồng thực hiện các thủ tục khám, chữa bệnh. Ngoài ra, phụ nữ DTTS tại một số vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại khó khăn, các cơ sở y tế ở quá xa nên họ chọn sinh đẻ tại nhà. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe bà mẹ, trẻ em mà họ cũng mất đi cơ hội được chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế, thụ hưởng chính sách ưu việt trong khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế.
2.5. Sự tham gia của phụ nữ DTTS trong lĩnh vực chính trị còn nhiều thách thức
Bên cạnh những điểm sáng về sự tham gia của nữ DTTS trong vị trí lãnh đạo của bộ máy Đảng và Nhà nước (có 01 đồng chí nữ Ủy viên Bộ Chính trị, 44/151 nữ đại biểu Quốc hội khóa XV là người DTTS), nhưng thực tế tỷ lệ phụ nữ DTTS tham gia hệ thống chính trị thấp hơn nhiều so với tỷ lệ chung và so với nam giới. Cụ thể: cán bộ công chức nữ DTTS trong cơ quan Đảng chỉ chiếm 6%; Tỷ lệ công chức nữ trong cơ quan Đảng vẫn còn khá lớn so với nam DTTS ở tất cả các vùng (Ở vùng nông thôn tỷ lệ công chức nam trong cơ quan Đảng là 40% cao gấp 6,4 lần tỷ lệ tương ứng DTTS); Tỷ lệ nữ cán bộ DTTS trong cơ quan Đảng rất thấp so với nam DTTS ở tất cả các vùng KT-XH ( trong cơ quan Đảng là nam DTTS ở trung du phía bắc là 56,5% cao gấp 6,6 lần tỷ lệ tương ứng của nữ DTTS); Trong cơ quan hành chính: ở các xã vùng DTTS tỷ lệ cán bộ công chức là nữ DTTS chỉ chiếm 11,4% trong khi đó nam là 29,5%).
Nguyên nhân là do không ít phụ nữ DTTS còn khó khăn khi không thông thạo tiếng phổ thông, việc tiếp thu thông tin còn hạn chế dẫn đến tự ti, ngại giao tiếp, mặt khác khoảng cách về yếu tố địa hình cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc tham gia của phụ nữ DTTS vào các hoạt động ở địa phương.
Trước thực trạng nêu trên, các chính sách dân tộc trong thời gian tới cần tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản của phụ nữ DTTS như: nâng cao tỷ lệ biết chữ của phụ nữ dân tộc thiểu số, cải thiện dịch vụ y tế và giúp phụ nữ DTTS dễ dàng tiếp cận với dịch vụ y tế có chất lượng; tạo sinh kế bền vững cho phụ nữ DTTS; có cơ chế thích hợp để khuyến khích phụ nữ DTTS tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội, việc làm có trả công... Đây cũng chính là những lĩnh vực ưu tiên mà Ủy ban Dân tộc đã và đang phối hợp với các bộ ngành để tổ chức triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi trong giai đoạn 2021-2030.
Chương trình MTQG đã tích hợp vấn đề giới vào dự án 8: Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em và Tiểu dự án 9.2: Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số để hỗ trợ trực tiếp cho phụ nữ, trẻ em dân tộc thiểu số; cũng như mở rộng độ bao phủ cho đối tượng thụ hưởng là phụ nữ, trẻ em dân tộc thiểu số trong các Dự án, tiểu dự án thuộc Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS & MN giai đoạn 2021-2030.
Thành tựu đó là sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của các cấp ngành, toàn xã hội và có đóng góp không nhỏ từ công tác phối hợp giữa Ủy ban Dân tộc và các bộ, ngành, địa phương trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát huy lợi thế đặc thù từ lĩnh vực công tác dân tộc, công tác phụ nữ của mỗi cơ quan để hoàn thành các mục tiêu vì sự tiến bộ của phụ nữ nói chung và phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng; vì sự phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng như sự phát triển của đất nước.
Trong thười gian tới, để phụ nữ DTTS phát huy thế mạnh của mình và chủ động trong cuộc sống qua đó nâng cao tri thức, quyền làm chủ kinh tế, từng bước tiếp cận đầy đủ cơ hội phát triển, vươn lên thoát nghèo, cần tập trung vào các giải pháp sau:
Một là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của phụ nữ và nam giới DTTS về quyền bình đẳng trong sở hữu đất đai, tài sản; và tham gia vào các quyết định về kinh tế trong hộ gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó, tăng cường tập huấn nhằm nâng cao năng lực cho phụ nữ DTTS có đủ kiến thức và kỹ năng để sử dụng các quyền về tài sản của mình, bảo đảm bình đẳng giới thực chất.
Hai là, tăng cường hỗ trợ các nhóm phụ nữ DTTS yếu thế nhất được tiếp cận và thụ hưởng bình đẳng với cộng đồng người DTTS địa phương tới các nguồn lực của Chương trình Mục tiêu Quốc gia Phát triển kinh tế-xã hội vùng DTTS&MN giai đoạn 2021-2030.
Ba là, tăng cường cung cấp thông tin, tuyên truyền và dịch vụ hỗ trợ di cư lao động an toàn và phòng chống mua bán người cho lao động nữ DTTS, bao gồm cả nhóm lao động nữ DTTS đã/có nguy cơ di cư bất hợp pháp qua biên giới. Các hoạt động hỗ trợ như: tư vấn định hướng nghề nghiệp; tư vấn học nghề; giới thiệu việc làm, tư vấn đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; hỗ trợ pháp lý trong quan hệ lao động; quản lý tài chính và chuyển tiền về nhà; tư vấn giải quyết khủng hoảng, khó khăn trong quá trình di cư lao động và cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn nhân mua bán người.
Bốn là, thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ DTTS và các tổ chức đại diện của phụ nữ trong quá trình xây dựng, vận hành, quản lý - điều hành và giám sát các chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm và chuyển đổi việc làm ở địa phương, vùng DTTS.
Năm là, xây dựng các mô hình hỗ trợ phụ nữ DTTS sau khi học nghề được chuyển đổi việc làm, cải thiện việc làm; hỗ trợ nữ thanh niên dân tộc thiểu số mới tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông tìm việc làm tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp.
Sáu là, tiếp tục tác động mạnh mẽ để thay đổi nhận thức và hành động của xã hội đối với phụ nữ DTTS; Khuyến khích sự tham gia của phụ nữ DTTS vào quá trình thay đổi cuộc sống. Đồng thời, chú trọng tuyên truyền giúp phụ nữ DTTS phát huy nội lực và tương trợ giúp đỡ nhau về vốn, ngày công, khoa học - kỹ thuật, kinh nghiệm để phát triển kinh tế gia đình, ổn định đời sống, từng bước xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng.