Chân dung nữ Giáo sư nghiên cứu ung thư giành Giải đặc biệt VinFuture 2025
GS Mary-Claire King giành Giải đặc biệt VinFuture 2025 dành cho nhà khoa học nữ Luôn ủng hộ phụ nữ làm khoa học
Việc xác định vị trí gene BRCA1 trên nhiễm sắc thể 17q21 vào năm 1990 - trước khi bộ gene người được giải mã - được xem là cột mốc lịch sử, khẳng định bản chất di truyền của nguy cơ ung thư và thay đổi cách tiếp cận phòng ngừa - điều trị trên toàn thế giới. Chia sẻ sau khi nhận giải, GS Mary-Claire King cho rằng sự ghi nhận này cũng là một thông điệp mạnh mẽ về vai trò và năng lực của phụ nữ trong khoa học.
GS Richard Friend (phải) - Chủ tịch Hội đồng Giải thưởng VinFuture - trao giải cho GS Mary-Claire King
“Với tôi, nhà khoa học dù là nam hay nữ đều như nhau, thành công của chúng tôi cũng là thành công chung của cộng đồng khoa học. Chúng ta - những người phụ nữ đang không ngừng tiến về phía trước - sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ, đặc biệt là những nhà khoa học nữ tương lai, để họ tự tin bước tiếp trên hành trình khám phá và cống hiến này” – GS. Mary-Claire King
Theo bà, người làm nghiên cứu khoa học rất vất vả, phải chấp nhận thất bại và luôn tiếp nhận với một thái độ tích cực nhất. "Cứ để thất bại càng sớm càng nhanh chóng phát triển, thành công - đó là cách khoa học chọn lọc ra con đường đúng.Trong sự nghiệp nghiên cứu, mỗi khi tôi có một ý tưởng, hướng nghiên cứu nào đó, sẽ có nhiều người nhìn vào và nói điều đó là vô lý, rất vô lý. Nhưng sau đó nghiên cứu được công bố thì lại có người học theo, và nhiều người sau đó làm theo. Những người từng chê cũng nhanh chóng quay trở lại và nói biết rằng ý tưởng sẽ thành công", GS Mary-Claire King nói.
GS King hiện giảng dạy tại Đại học Washington, là thành viên của Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ, Viện hàn lâm Nghệ thuật và Khoa học Mỹ, Viện hàn lâm Y học Quốc gia Mỹ, Hội Triết học Mỹ, và là thành viên nước ngoài của Viện hàn lâm Khoa học Pháp.
Là một trong những nhà di truyền hàng đầu thế giới, GS King đã trở thành hình mẫu về phụ nữ làm khoa học. Không giam mình trong phòng thí nghiệm, bà đi khắp nơi để vận động cho nghiên cứu ung thư vú, thường xuyên được Quỹ Ung thư Vú Susan G. Komen hoặc Hiệp hội Ung thư Mỹ bảo trợ.
GS Mary-Claire King phát biểu
Với những nỗ lực không ngừng GS Mary-Claire King đã nhận nhiều giải thưởng như Giải thưởng Viện Weizmann dành cho Phụ nữ trong Khoa học (năm 2006), Giải thưởng Thành tựu Đặc biệt Lasker-Koshland về Khoa học Y tế (năm 2014), Huân chương Khoa học Quốc gia Mỹ (năm 2016), Giải thưởng Shaw về Khoa học Sự sống và Y học (năm 2018), Giải thưởng Gairdner Quốc tế Canada (năm 2021), và hàng loạt bằng danh dự từ các viện nghiên cứu.
Thành công đến từ đam mê nghiên cứu ung thư
GS Mary-Claire King sinh ở vùng ngoại ô phía Bắc Chicago, Mỹ. Việc học của Mary-Claire và em trai Paul luôn được ưu tiên hàng đầu dù cha mẹ không có điều kiện học cao. GS King kể lại, bà và em trai được che chở trước mọi khó khăn, bản thân cũng có cơ hội đến một trường trung học công lập rất tốt gần nhà. Tại ngôi trường này, bà đã học được vẻ đẹp của toán. Với sự khuyến khích từ các giáo viên toán, bà đăng ký ngành này tại Học viện Carleton và nhận bằng cử nhân năm 20 tuổi. Các giáo sư gợi ý bà cân nhắc học cao học ngành thống kê hoặc toán ứng dụng, đặc biệt là tại Đại học California, Berkeley. Năm đầu tiên tại Đại học California, bà King cảm thấy may mắn vì có cơ hội tham gia khóa học cuối cùng trước khi nghỉ hưu của nhà di truyền học Curt Stern.
Việc trở thành nhà di truyền thực nghiệm mà không có nền tảng sinh hay hóa học là thách thức lớn. Thầy hướng dẫn đã hỗ trợ bà thiết kế một đề tài phù hợp với kỹ năng thực nghiệm, thậm chí tận dụng được khả năng viết phương trình của bà. Kết quả, bà nhận bằng tiến sĩ di truyền học tại Đại học California năm 1973 với luận án cho thấy trình tự DNA của người và tinh tinh giống nhau đến 99%.
Hơn 50 năm trước, bà đã dẫn nhiều cuộc biểu tình phản đối cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam. Bà yêu mến và quay trở lại Việt Nam nhiều lần từ năm 2017. Bà đã tới Bệnh viện Nhi Trung ương hợp tác với các nhân viên y tế tại đây để nghiên cứu về một số ca bệnh, trong đó có những em bé bị ốm nặng, khuyết tật.
Những năm 1970, gần như toàn bộ giới khoa học tin bệnh ung thư do virus gây ra, GS Mary-Claire King là người đầu tiên chứng minh ung thư vú có thể di truyền, mở đường cho những phương pháp điều trị cứu sống vô số phụ nữ. GS King tiếp cận với vấn đề ung thư vú nhờ GS Nicholas Petrakis từ Đại học California, San Francisco, nơi bà đảm nhận một vị trí nghiên cứu sau tiến sĩ vào năm 1974. Petrakis cổ vũ bà tin vào trực giác khi thiết kế những nghiên cứu dài hạn với rủi ro rất cao nhằm kiểm tra xem liệu hiện tượng tập trung theo gia đình của ung thư vú có phải do đột biến di truyền trong một gene hay không. 2 năm sau, khi bà chuyển về Đại học California, Berkeley, để làm giảng viên, Petrakis thúc giục bà tiếp tục dự án.
GS Mary-Claire King (bìa phải) cùng đồng nghiệp tìm kiếm những đột biến có thể hé lộ gene BRCA1
Nhóm của bà lập bản đồ gene ung thư vú bằng cách phân lập trình tự DNA giữa các cá nhân có cùng kiểu hình. Họ gây dựng dữ liệu dựa trên những gì Viện Ung thư Quốc gia Mỹ (NCI) thu thập ở các nghiên cứu lớn trước đó. Công trình của nhóm chuyên gia gặp nhiều khó khăn vì ung thư vú đôi khi khiến bệnh nhân ra đi khi còn trẻ. Điều này khiến phả hệ gene của các gia đình bị khuyết thiếu. Trong trường hợp bệnh nhân đã mất, phòng thí nghiệm phải thu thập DNA từ anh chị em ruột, cha mẹ, con cái họ để tái tạo bản đồ gene.
Năm 1990, sau gần 2 thập kỷ tỉ mỉ nghiên cứu, GS King cùng các đồng nghiệp chứng minh ung thư vú có thể di truyền ở một số gia đình, do đột biến ở một gene duy nhất mà bà đặt tên là BRCA1. Phát hiện mang tính cách mạng này làm thay đổi những quan niệm từng được chấp nhận về di truyền học ung thư cũng như nhiều căn bệnh phổ biến và phức tạp khác. Công trình của bà cũng mang đến những phương pháp điều trị cứu sống vô số phụ nữ trên khắp thế giới.
Ngoài ung thư, nữ giáo sư còn nghiên cứu cơ sở di truyền của tình trạng mất thính lực, các rối loạn Mendel, bệnh tâm thần nghiêm trọng, sự đa dạng và tiến hóa của con người.
Nữ giáo sư nghiên cứu cơ sở di truyền
Bà cũng đi tiên phong trong việc ứng dụng giải trình tự DNA cho các cuộc điều tra nhân quyền, phát triển phương pháp giải trình tự DNA ty thể, vốn được bảo tồn trong hài cốt, và dùng cách này để xác định danh tính trẻ em bị bắt cóc ở Argentina. Bà làm việc với các tổ chức nhân quyền để giúp xác định danh tính người mất tích ở Chile, Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Haiti, Honduras, Mexico, Croatia, Serbia, Philippines, và hỗ trợ các tòa án xét xử tội ác chiến tranh của Liên hợp quốc trong nhiều cuộc điều tra.
