Nhiều ý kiến sâu sát về việc quan tâm cán bộ Hội cơ sở, triển khai hiệu quả phong trào “Bình dân học vụ số”
Hội nghị Ban Chấp hành lần thứ 13 là dịp quan trọng để các cán bộ Hội cả nước chia sẻ, đóng góp ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả công tác Hội trong bối cảnh đất nước đang tích cực thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính và đẩy mạnh chuyển đổi số.
Trong phiên thảo luận tại tổ, nhiều đại biểu bày tỏ đồng tình với các Tờ trình, Dự thảo báo cáo đã được trình tại Hội nghị như: Báo cáo sơ kết hoạt động Hội 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 2025; Báo cáo công tác của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Hội 6 tháng đầu năm 2025, nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 2025; Dự thảo Kế hoạch thực hiện Phong trào "Bình dân học vụ số" của Hội LHPN Việt Nam; Dự thảo Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030; Báo cáo một số vấn đề đặt ra liên quan đến Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII và Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam…
Nhiều đại biểu bày tỏ đồng tình với các Tờ trình, Dự thảo báo cáo đã được trình tại Hội nghị
Đào tạo, bồi dưỡng trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ Hội sau sắp xếp rất quan trọng
Tuy nhiên, các đại biểu cũng đề xuất nhiều nội dung cần bổ sung, điều chỉnh thiết thực, sát với tình hình thực tiễn tại địa phương.
Về dự thảo Định hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026, nhiều ý kiến đồng tình với đề xuất của Đoàn Chủ tịch về tên chủ đề năm 2026 với phương án 1: "Đổi mới, sáng tạo, cụ thể hoá đưa Nghị quyết Đại hội Đảng, Đại hội Mặt trận Tổ quốc và Đại hội đại biểu phụ nữ các cấp vào cuộc sống". Cũng có ý kiến cho rằng nên chờ chờ Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động chủ đề chung để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống chính trị.
Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Vũ Thu Hoà cho ý kiến về việc quản lý quỹ Hội và thực hiện trích nộp hội phí sau khi kết thúc hoạt động của Hội LHPN cấp huyện
Đối với việc quản lý quỹ Hội và thực hiện trích nộp hội phí sau khi kết thúc hoạt động của Hội LHPN cấp huyện, Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Vũ Thu Hoà bày tỏ sự nhất trí với phương án xử lý là giữ nguyên tỷ lệ để lại cấp TƯ là 3%; chuyển toàn bộ 10% hội phí để lại ở cấp huyện theo quy định hiện hành về cấp tỉnh, theo đó: cấp cơ sở là 80%; cấp tỉnh 17% và cấp TƯ 3%. Tỷ lệ này thực hiện cho đến khi Điều lệ được sửa đổi, bổ sung và văn bản hướng dẫn thi hành mới có hiệu lực. Phương án này cũng nhận được sự đồng thuận của nhiều đại biểu tham dự thảo luận. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Quảng Ninh cũng đề xuất TW Hội LHPN Việt Nam sớm ban hành hướng dẫn tổ chức Hội sau sắp xếp. Trong bối cảnh Hội LHPN cấp huyện sẽ kết thúc hoạt động và tiến tới Hội LHPN các xã mới sau sáp nhập, việc đào tạo, bồi dưỡng trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ Hội là rất quan trọng.
Đồng quan điểm với Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Quảng Ninh, bà Phạm Thị Thu Thuỷ, Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Thái Nguyên cho rằng việc hướng dẫn tổ chức bộ máy Hội sau sắp xếp cần được hướng dẫn càng sớm càng tốt, nhất là với những tỉnh, thành được sáp nhập từ tỉnh khác. Vấn đề sáp nhập các tỉnh cũng là thách thức cho một số Hội LHPN các tỉnh ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn trong việc thực hiện một số chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, nhất là các vấn đề liên quan đến chuyển đổi số, triển khai phong trào "bình dân học vụ số".
Các đại biểu quan tâm việc đào tạo, bồi dưỡng năng lực cho cán bộ Hội sau sắp xếp tổ chức bộ máy
Theo bà Diệp Thị Minh Quyết, Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Quảng Bình, việc sáp nhập đơn vị hành chính đã và đang tác động không nhỏ đến phong trào phụ nữ và công tác Hội tại cơ sở. Trong bối cảnh đó, rất cần sự quan tâm đặc biệt tới đội ngũ Chủ tịch Hội LHPN cấp xã, phường sau sáp nhập. Đại biểu đề nghị Trung ương Hội có giải pháp nâng cao năng lực, trang bị kiến thức, kỹ năng và truyền cảm hứng để các chị hiểu rõ, chủ động triển khai hiệu quả các hoạt động, đưa công tác Hội đến gần hơn với hội viên phụ nữ một cách thực chất. Đây là vấn đề cấp thiết, cần được tập trung giải quyết kịp thời và toàn diện.
Nhiều ý kiến quan tâm đến phong trào “Bình dân học vụ số”
Một nội dung nổi bật trong các tổ thảo luận là việc triển khai phong trào "Bình dân học vụ số". Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Hà Tĩnh Nguyễn Thị Lệ Hà cho rằng, cần xác định tiêu chí rõ ràng cho các mô hình như “gia đình số”, “chi hội số” để đảm bảo tính khả thi và có căn cứ đánh giá. Bên cạnh đó, bà cũng đặt ra câu hỏi, sau sáp nhập phong trào này còn mang màu sắc, dấu ấn của phụ nữ nữa không bởi tại các địa phương cũng sẽ có các tổ chuyển đổi số và sẽ bị trùng đối tượng cũng như chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, do đó cần cân nhắc để làm rõ hơn vai trò của tổ chức Hội trogn triển khai phong trào. Một số ý kiến đề nghị thử nghiệm trước mô hình “gia đình số” tại tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và những địa phương còn hạn chế về cơ sở hạ tầng để đảm bảo tính phù hợp.
Đại tá Nguyễn Thị Thu Hiền, Trưởng Ban Phụ nữ Quân đội thảo luận tại hội nghị
Đại tá Nguyễn Thị Thu Hiền, Trưởng Ban Phụ nữ Quân đội bày tỏ đồng tình, trân trọng và đánh giá cao sự đổi mới tư duy khi kịp thời xây dựng, triển khai Kế hoạch thực hiện Phong trào "Bình dân học vụ số" của Hội LHPN Việt Nam để cụ thể hóa Nghị quyết 57 của Trung ương. Để Kế hoạch này sớm đi vào cuộc sống, bà đề xuất: TW Hội thiết kế biểu trưng, khẩu hiệu thống nhất để tuận tiện cho việc tuyên truyền, phổ biến. Cùng với đó, xây dựng các mô hình mẫu, ví dụ như: "gia đình số", "chi hội số"... Đặc biệt là cần phải có khái niệm rõ ràng về nội dung này thì mới có thể hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện được chính xác.
Kết quả thảo luận tại các tổ sẽ là cơ sở quan trọng để Đoàn Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam tiếp tục hoàn thiện các văn bản, kế hoạch, đảm bảo triển khai thành công các nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.
* Ngoài các nội dung thảo luận tại tổ chiều 3/6, Đoàn Chủ tịch TW Hội cũng xin ý kiến bằng văn bản các Ủy viên Ban Chấp hành đối với 2 dự thảo gồm: "Dự thảo Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030" và "Dự kiến nội dung Dự án 8 và lồng ghép giới trong các dự án thuộc Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn II, từ năm 2026 - 2030".