Bạo lực đối với phụ nữ - các hình thức, hậu quả và chi phí

29/06/2007
Bạo lực đối với phụ nữ diễn ra dưới nhiều hình thức: bạo lực về thể xác, tình dục, tâm lý và kinh tế. Các hình thức bạo lực này có mối liên hệ với nhau và tác động đến phụ nữ từ khi họ chưa được sinh ra đến khi về già. Khi xã hội thay đổi, các hình thức bạo lực cũng thay đổi và nhiều hình thức bạo lực mới nảy sinh. Có thể kể như buôn bán người qua biên giới.

Bạo lực đối với phụ nữ là hiện tượng phức tạp và đa dạng để lại hậu quả và chi phí nặng nề và lâu dài. Cuộc đấu tranh loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ là một cuộc đấu tranh toàn diện, có hệ thống và quyết liệt.

 

Theo nghiên cứu sâu của Văn phòng Tổng Thư ký LHQ về bạo lực đối với phụ nữ:

 

Có bằng chứng thuyết phục cho thấy bạo lực đối với phụ nữ là nghiêm trọng và phổ biến trên khắp thế giới. Các nghiên cứu về bạo lực đối với phụ nữ được tiến hành ở ít nhất 71 nước cho thấy một tỉ lệ đáng kể phụ nữ bị bạo lực về thân thể, tình dục hoặc tâm lý.

 

Hình thức bạo lực về thân thể phổ biến nhất mà phụ nữ trên toàn cầu gặp phải là bị người bạn tình đánh đập. Trung bình ít nhất cứ 3 phụ nữ thì có 1 người là đối tượng của hành vi bạo lực của người bạn tình trong suốt cuộc đời của họ.

 

Nhiều phụ nữ là đối tượng của bạo lực tình dục bởi bạn tình. Một nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới tại 11 nước cho thấy tỉ lệ phụ nữ là đối tượng của bạo lực tình dục bởi bạn tình dao động từ 6% đến 59% ở Nhật Bản, Séc-bi-a, Mông-tê-nê-grô và Ê-ti-ô-pi-a.

 

Bạo lực về tâm lý hay tình cảm do người bạn tình gây ra cũng phổ biến. Tỉ lệ phụ nữ bị bạo lực về tâm lý dao động từ 10% ở Ai cập đến 51% ở Chi Lê. Một nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc ở Pháp về bạo lực đối với phụ nữ cho thấy 35% phụ nữ đã trải qua những áp lực về tâm lý do bạn tình gây ra trong vòng 12 tháng.

 

Giết hại phụ nữ có nhiều đặc điểm khác với việc giết hại nam giới và thường liên quan đến bạo lực tình dục. Khoảng 40% đến 70% nạn nhân là phụ nữ bị chồng, bạn trai giết hại ở Ô-xtơ-rây-li-a, Ca-na-đa và Mỹ. Ở Cô-lôm-bia, cứ 6 ngày có một phụ nữ bị bạn tình hoặc bạn tình cũ giêt hại. Hàng trăm phụ nữ bị bắt cóc, bị hãm hiếp và bị giết ở tại thành phố Juárez (Mê-hi-cô) và các gần thành phố đó trong giai đoạn 10 năm.

 

Hơn 130 triệu em gái là đối tượng của hình thức bạo lực cắt bỏ bộ phận kích dục. Hiện tượng này thường thấy nhiều hơn các nước Châu Phi và một số nước ở Trung Đông và cũng thấy trong các cộng đồng nhập cư ở Châu Âu, Nam Mỹ và Ô-xtơ-rây-li-a.

 

Giết bỏ thai nhi nữ, việc lựa chọn giới tính trước khi sinh và việc bỏ mặc các bé gái phổ biến ở Nam và Đông Á, Nam Châu Phi và Trung Đông.

 

Phụ nữ bị quấy rối tình dục trong suốt cuộc đời của họ. Khoảng 40% đến 50% phụ nữ ở Liên minh Châu Âu cho biết một số hình thức quấy rối tình dục ở nơi làm việc. Ở Malawi, 50% học sinh nữ được khảo sát cho biết bị quấy rối tình dục ở trường.

 

Phần lớn trong số hàng trăm nghìn người bị buôn bán hàng năm là phụ nữ và trẻ em và nhiều người bị buôn bán vì mục đích bóc lột tình dục.

 

Bạo lực đối với phụ nữ ở những vùng chiến sự thường là bạo lực tình dục. Khoảng 250.000 đến 500.000 phụ nữ bị hãm hiếp trong thời gian diệt chủng ở Ru-an-đa năm 1994; khoảng 20.000 đến 50.000 phụ nữ bị hãm hiếp trong cuộc nội chiến ở Bô-xni-a vào những năm đầu của thập kỷ 90.

 

Nhiều phụ nữ phải đối mặt với nhiều hình thức phân biệt đối xử và đã làm tăng nguy cơ bị bạo lực của họ. Phụ nữ bản xứ ở Ca-na-da có nguy cơ tử vong do bị bạo lực lớn hơn 5 lần so với phụ nữ khác cùng lứa tuổi. Ở Châu Âu, Nam Mỹ và Ô-xtơ-rây-li-a, hơn một nửa phụ nữ bị tàn tật trải qua bạo lực về thân thể so với một phần ba phụ nữ không bị tàn tật.

 

Phụ nữ là đối tượng của bạo lực và có thể bị tổn thương về thân thể, tâm thần và sức khỏe sinh sản. Bị thương tổn về thân thể bao gồm bị gẫy xương và các điều kiện về sức khỏe kinh niên. Hậu quả về sức khỏe sinh sản bao gồm các bệnh phụ khoa, bị viêm nhiễm đường sinh dục, có thai ngoài ý muốn và các vấn đề về sinh nở.

 

Bạo lực gia đình và hiếp dâm chiếm 5% trong số các gánh nặng về bệnh tật đối với phụ nữ ở độ tuổi 15 – 44 tại các nước đang phát triển và 19% ở các nước phát triển. Bạo lực gây cho phụ nữ nguy cơ cao phải gánh chịu hậu quả về sự giảm sút thể lực và sức khỏe sinh sản. Phụ nữ bị lạm dụng cũng cho thấy sức khỏe tâm thần và chức năng xã hội kém hơn.

 

Bạo lực trước và sau khi mang thai gây nên hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe của cả người mẹ và đứa con. Bạo lực gây nguy cơ cao đối với thai sản và những vấn đề liên quan đến thai sản như sảy thai, sinh thiếu tháng và trẻ sinh ra nhẹ cân.

 

Những phụ nữ bị bạo lực có nguy cơ bị nhiễm HIV cao. Nỗi lo sợ về bạo lực cũng cản trở phụ nữ tiếp cận các thông tin về HIV/AIDS cũng như được điều trị và tư vấn.

 

Tình trạng suy sụp là một trong những hậu quả thường gặp đối với những phụ nữ bị bạo lực về tình dục và thân thể. Phụ nữ là đối tượng bị bạo lực thường lạm dụng rượu và ma túy và có hành vi tình dục không bình thường, muốn tự tử, bị căng thẳng (stress) sau chấn thương và rối loạn hệ thống thần kinh trung ương.

 

Chứng kiến hành vi bạo lực gia đình thường xuyên có thể dẫn đến bạo lực suốt đời trọng mối quan hệ cá nhân.

 

Bạo lực đối với phụ nữ có thể cản trở phụ nữ tham gia một cách đầy đủ vào phát triển kinh tế và hạn chế các cơ hội việc làm của phụ nữ.

 

Các em gái là mục tiêu của bạo lực thường ít hoàn thành việc họccủa mình. Một nghiên cứu ở Ni-ca-ra-gua cho thấy trẻ em nữ là nạn nhân của bạo lực rời bỏ trường học trung bình sớm hơn 4 năm so với các em khác.

 

Chi phí giải quyết bạo lực chống lại phụ nữ - cả trực tiếp và gián tiếp là rất lớn. Các chi phí này bao gồm chi phí trực tiếp cho các dịch vụ điều trị và hỗ trợ những phụ nữ và trẻ em bị lạm dụng và đưa kẻ phạm tội ra công lý. Các chi phí gián tiếp bao gồm chi phí mất việc làm, giảm năng suất lao động và chi phí đối với sự chịu đựng và nỗ đau của con người.

 

Ở Ca-na-đa, nghiên cứu năm 1995 ước tính chi phí trực tiếp hàng năm để giải quyết bạo lực chống lại phụ nữ là 684 triệu đô la Ca-na-đa cho hệ thống tư pháp hình sự, 187 triệu đô la Ca-na-đa cho hoạt động của cảnh sát và 294 triệu đô la Ca-na-đa cho chi phí tư vấn và tập huấn, tổng cộng chi phí hàng năm là hơn một tỉ đô la Ca-na-đa. Một nghiên cứu vào năm 2004 tại Vương quốc Anh ước tính tổng chi phí trực tiếp và gián tiếp bao gồm cả chi phí đối với sự chịu đựng và nỗ đau của con người để giải quyết bạo lực gia đình là 23 tỉ bảng Anh trong một năm hay 440 bảng cho một người.

 


 

 

 


 

Hoài Thu - Lược dịch từ tài liệu của LHQ

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video