Lồng ghép giới và những vấn đề đặt ra trong Dự án thành phần của Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025

08/12/2025
Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) là lời kêu gọi của Liên Hợp Quốc (LHQ) đến tất cả các quốc gia trên thế giới nhằm giải quyết những thách thức lớn mà nhân loại phải đối mặt, hướng đến một tương lai tốt đẹp và bền vững hơn cho tất cả mọi người vào năm 2030.
Ảnh minh hoạ (Nguồn: Báo Nhân dân)

Đặt vấn đề

Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) là lời kêu gọi của Liên Hợp Quốc (LHQ) đến tất cả các quốc gia trên thế giới nhằm giải quyết những thách thức lớn mà nhân loại phải đối mặt, hướng đến một tương lai tốt đẹp và bền vững hơn cho tất cả mọi người vào năm 2030.

SDGs bao gồm 17 mục tiêu cụ thể liên quan đến các vấn đề phổ biến nhất nhằm xóa đói giảm nghèo, bảo vệ trái đất khỏi những tác động sống của chính con người và đảm bảo nâng cao chất lượng cuộc sống mỗi người. Trong 17 mục tiêu đó thì mục tiêu bình đẳng giới (mục tiêu 5) luôn được mọi quốc gia quan tâm, hướng tới trong chiến lược phát triển của mình. Bình đẳng giới không chỉ là quyền cơ bản của con người mà còn là nền tảng cần thiết cho một thế giới hòa bình, thịnh vượng và bền vững. Mục tiêu là hướng đến chấm dứt mọi hình thức phân biệt đối xử với tất cả phụ nữ và trẻ em gái ở mọi nơi; xóa bỏ mọi hình thức bạo lực đối với tất cả phụ nữ và trẻ em gái ở nơi công cộng và khu vực tư nhân, bao gồm buôn bán người, bóc lột tình dục và các hình thức bóc lột khác; đồng thời đảm bảo sự tham gia đầy đủ, hiệu quả của phụ nữ, để phụ nữ có cơ hội bình đẳng trong vai trò lãnh đạo ở tất cả các cấp ra quyết định trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Thông qua và củng cố các chính sách hợp lý và pháp luật có hiệu lực thi hành để thúc đẩy bình đẳng giới, ...

Việt Nam là quốc gia cam kết mạnh mẽ trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững thông qua Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự (CTNS) 2030 vì sự phát triển bền vững. Mục tiêu số 5 về bình đẳng giới nhằm giải quyết những thách thức phát triển lớn mà người dân Việt Nam đang phải đối mặt.

Theo Báo cáo rà soát chính sách Bình đẳng giới trong giáo dục của Chương trình phát triển giáo dục trung học giai đoạn 2 năm 2023 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT)[1]: Kết quả tổng kết thực hiện mục tiêu chiến lược quốc gia về bình đẳng giới (BĐG) giai đoạn 2010-2020 - Chiến lược quốc gia về BĐG đầu tiên được xây dựng và triển khai ở Việt Nam cho thấy, đã có 14/22 chỉ tiêu đạt được hoặc dự kiến đạt được mục tiêu đề ra, 7 chỉ tiêu chưa đạt và 1 chỉ tiêu chưa có đủ cơ sở để đánh giá đạt kết quả. Trong đó, một số thành tựu nổi bật là: (i) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật chính sách theo hướng BĐG thông qua những nỗ lực lồng ghép giới trong các văn bản quy phạm pháp luật ở các lĩnh vực chủ chốt; (ii) Tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác BĐG và vì sự tiến bộ của phụ nữ; (iii) Nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân đối với BĐG và nâng cao vị thế của phụ nữ ở gia đình và xã hội. Bất BĐG vẫn còn tồn tại trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội của Việt Nam, trong đó có lĩnh vực giáo dục, như:

- Mặc dù tỷ lệ học sinh nữ ở các cấp học phổ thông và ở một số trường đại học xấp xỉ tỉ lệ này của học sinh nam, tuy nhiên, nữ vẫn là thiểu số trong các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ (STEM) và các ngành kỹ thuật nói chung. Tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường của 53 DTTS vẫn cao hơn gần hai lần tỷ lệ này của cả nước và gần ba lần dân tộc Kinh, do bỏ học để lao động sớm, kết hôn sớm và khoảng cách tới trường học quá xa.. Trong nhà trường vẫn còn tình trạng bạo lực học đường, trong đó có bạo lực trên cơ sở giới, (ví dụ, trẻ em gái thường hay bị bắt nạt) nhiều nhà trường ở vùng khó khăn, dân trí thấp hoặc chưa có các biện pháp dứt điểm để đảm bảo an toàn và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới.

- Tiếp cận giáo dục chất lượng vẫn tiếp tục là thách thức đối với trẻ em DTTS, do nhiều nguyên nhân cả bên trong, bên ngoài nhà trường. Ở vùng DTTS&MN học sinh tốt nghiệp THCS, THPT không được định hướng nghề nghiệp tốt và ít lựa chọn học tập lên bậc cao hơn.

- Tỷ lệ biết đọc, biết viết chữ phổ thông của người DTTS mới đạt 80,9% (nam 86,7%, nữ 75,1%), thấp hơn đáng kể so với người Kinh (nam 97,0%, nữ 94,6%). Ở nhóm tuổi càng cao thì tỷ lệ người DTTS, đặc biệt nữ DTTS, biết đọc, biết viết chữ phổ thông càng thấp. Đây là rào cản đối với phụ nữ trung tuổi trong tham gia vào các khóa đào tạo nghề, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư được tổ chức thường xuyên ở địa phương.

- Về lồng ghép vấn đề BĐG trong xây dựng chiến lược, chương trình, kế hoạch hoạt động của trường học còn mang tính hình thức, không cụ thể, do đó, chưa thực chất và chưa tác động đáng kể đến BĐG trong thực tế…

Trong những năm qua, Bộ GD&ĐT đã chủ trì soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản liên quan đến các quy định về bình đẳng trong giới trong giáo dục. Trong đó, có quyền được học tập, được nâng cao trình độ; quyền tham gia học tập và đạt được bằng cấp ở các vùng khác nhau; ở tất cả các cấp học, trình độ đào tạo, loại hình, phương thức đào tạo đều không có sự phân biệt nam, nữ và được quy định thống nhất ở tất cả các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.

Trong lĩnh vực giáo dục, các quy định có liên quan đến thực hiện quyền bình đẳng giới và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ, trẻ em gái được quy định ổn định và thống nhất. Quyền được học tập, thi, tuyển sinh, thụ hưởng các chế độ chính sách trong học tập đều đặt vấn đề bình đằng giới và giáo dục bình đẳng giới lên hàng đầu. Cũng như đồng nhất và phù hợp nhăm thực thi Luật về bình đẳng giới cũng như các cam kết của Việt Nam trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Cụ thể, trong Chương trình Giáo dục phổ thông kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018, đã thể hiện sự cập nhật các nội dung giáo dục về bình đẳng giới trong Chương trình các môn học ở các cấp học. Bên cạnh đó, Bộ GD&ĐT đã xây dựng và ban hành rất nhiều tài liệu hướng dẫn “Lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”.

Theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg, Bộ GD&ĐT được giao chỉ đạo, điều hành và hướng dẫn triển khai thực hiện Tiểu dự án 1 thuộc Dự án 5 về”. Đổi mới hoạt động, củng cố phát triển các trường PTDTNT, trường PTDTBT và xóa mù chữ cho người dân vùng đồng bào DTTS. Năm 2023, Bộ GD&ĐT cùng với Hội LHPN Việt Nam ký kết Kế hoạch phối hợp số 784/KHPH-BGDĐT-HLHPNVN ngày 22/5/2023 về việc thực hiện Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” trong Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030.

II. Các giải pháp đã thực hiện

2.1. Chỉ đạo thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục, trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch hoạt động của ngành Giáo dục

- Triển khai lồng ghép giới trong chương trình bồi dưỡng giáo dục các bậc học phổ thông (từ bậc học Mầm non, Tiểu học, THCS, THPT), đặc biệt là trong hệ thống các trường PTDTBT, PTDTNT và trường ở địa bàn DTTS & MN.

- Việc lồng ghép giới trong các quy định, các chính sách, chương trình, kế hoạch của ngành Giáo dục luôn được quan tâm. Các quy định có liên quan đến thực hiện quyền bình đẳng giới và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ, trẻ em gái được quy định ổn định và thống nhất ở tất cả các văn bản quy phạm pháp luật và trong lĩnh vực giáo dục vùng DTTS&MN.

- Đảm bảo thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và cơ chế hỗ trợ xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở đối với phụ nữ là người dân tộc thiểu số; quan tâm tạo các điều kiện tăng tỷ lệ nhập học mầm non, tiểu học của trẻ em gái; giảm tỷ lệ mù chữ của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn thông qua công tác chỉ đạo của ngành.

- Phối hợp chỉ đạo, triển khai mô hình Câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi” nhằm đảm bảo tiếng nói, vai trò và sự tham gia của trẻ em trong các hoạt động phát triển kinh tế xã hội tại địa phương. 

- Giám sát, hỗ trợ kỹ thuật cho địa phương triển khai thực hiện Câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi” và giám sát, đánh giá công tác lồng ghép giới trong Dự án do ngành chủ trì.

- Ban hành các Kế hoạch và thực hiện phát triển tài liệu giáo dục bình đẳng giới đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và triển khai các lớp tập huấn đến các Sở GDĐT, Phòng GDĐT, các nhà trường vùng dự án.

- Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng Văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn 2018-2025” đến các đơn vị, trường học trong toàn ngành trong đó có các trường PTDTNT, PTDTBT. Các nội dung xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học bao hàm những vấn đề về giới và bình đẳng giới trong các cơ sở giáo dục, đặc biệt là loại bỏ những định kiến về giới, và đảm bảo quyền được học tập, sinh hoạt, thụ hưởng chính sách của trẻ em, học sinh nữ DTTS.

- Ban hành hướng dẫn nhiệm vụ trọng tâm năm học về giáo dục dân tộc, trong đó chỉ đạo các địa phương nỗ lực tăng tỷ lệ nhập học mầm non, tiểu học cho trẻ em gái, đặc biệt là trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, tăng cường các hoạt động giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống cho trẻ em, học sinh DTTS trong các nhà trường chuyên biệt vùng DTTS&MN.

- Hướng dẫn các Sở GD&ĐT triển khai nội dung của Tháng hành động về bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới từ ngày 15/11 - 15/12 hàng năm tại các địa phương, cơ sở giáo dục vùng DTTS&MN; huy động sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cơ quan, đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền các hoạt động bình đẳng giới tại các địa phương vùng DTTS&MN; tổ chức khen thưởng, biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới.

- Tăng cường công tác nghiên cứu và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bình đẳng giới trong giáo dục. Bộ GDĐT tích cực tham gia các đợt đánh giá việc thực hiện Luật bình đẳng giới và các Luật, chiến lược, văn bản pháp lý có liên quan về giới để có thông tin, dữ liệu, bằng chứng nhằm điều chỉnh, bổ sung, cập nhật các chỉ tiêu, hoạt động phù hợp với mục tiêu chung. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối kết hợp với các tổ chức quốc tế như: UNESCO, UNICEF, UNFA… tổ chức các hội thảo, hội nghị có các nội dung liên quan tới bình đẳng giới trong giáo dục.

2.2. Tăng cường truyền thông về vấn đề bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo

- Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong đội ngũ chuyên gia xây dựng chương trình- sách giáo khoa; đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên (CBQL, GV) và học sinh dưới nhiều hình thức: lồng ghép trong môn học, xây dựng chuyên đề, tổ chức giao lưu có lồng ghép nội dung bình đẳng giới cho phù hợp với lứa tuổi.

- Tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về Tháng hành động về Bình đẳng giới với những nội dung phong phú, đa dạng, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với văn hóa, nhóm đối tượng đặc thù vùng DTTS&MN đồng thời bám sát theo từng chủ đề. 

2.3. Rà soát, điều chỉnh, xóa bỏ định kiến giới; thực hiện lồng ghép giới và vấn đề giới trong đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông

- Chỉ đạo thực hiện Chương trình Giáo dục thông 2018 (ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018), trong đó đặc biệt quan tâm đến các nội dung giáo dục về bình đẳng giới và đã được đề cập trong Chương trình các môn học ở các cấp học.

- Xây dựng và ban hành tài liệu hướng dẫn “Lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”.

2.4. Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên về vấn đề bình đẳng giới và kỹ năng nghề nghiệp

- Chỉ đạo và tổ chức các lớp tập huấn (trực tiếp và trực tuyến) nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ cho cán bộ quản lý các Phòng/Sở GDĐT và cán bộ giáo viên các trường có đông học sinh DTTS tại 03 khu vực Miền núi phía Bắc, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, Tây Nam bộ.

- Tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn, tọa đàm để hỗ trợ và chia sẻ kinh nghiệm ứng xử các tình huống sư phạm ở mỗi cấp học, bậc học, ở khối các trường sư phạm. Mời chuyên gia tư vấn nhận diện, xử lý các tình huống vi phạm các quy định đạo đức nhà giáo, vi phạm pháp luật của nhà giáo trong lao động nghề nghiệp; xây dựng cẩm nang “Xử lý tình huống sư phạm trong nhà trường” làm tài liệu hỗ trợ CBNGNLĐ trong ứng xử sư phạm; tổ chức cuộc thi “Thầy cô trong mắt em”; Xây dựng và nhân rộng mô hình điểm “Trường học hạnh phúc” với 3 tiêu chí cơ bản là “Yêu thương, An toàn và Tôn trọng”, trong đó lấy tiêu chí trường học không có hiện tượng vi phạm đạo đức nhà giáo là tiêu chí chính, hướng tới nội dung “Hiệu trưởng thay đổi” và cán bộ quản lý thay đổi; khuyến nghị các nhà trường có đào tạo sư phạm chú trọng nội dung về giáo dục đạo đức, năng lực ứng xử cho sinh viên.

III. Kết quả thực hiện

3.1. Tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên các trường PTDTBT, PTDTNT

- Riêng trong năm 2023, Bộ GD&DT đã tổ chức được 06 đợt tập huấn cho CBQL, GV của các tỉnh vùng dự án 8. Trong đó, có các trường tiểu học, THCS, THPT có người học ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, đặc biệt là các trường PTDTNT, PTDTBT về các nội dung thành lập, quản lý và vận hành câu lạc bộ thủ lĩnh của sự thay đổi và Lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. 

Theo đó, năm 2023 đã có trên 600 cán bộ quản lý, giáo viên cốt cán của các trường PTDTNT, PTDTBT, trường THCS vùng dự án 8 trên toàn quốc tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn do Bộ GD&DT tổ chức, đạt 100% theo kế hoạch. Nội dung tập huấn tập trung vào các kiến thức cơ bản về giới, bạo lực trên cơ sở giới; Nguyên nhân và hậu quả của bất bình đẳng giới; Nhận diện được các hành vi bạo lực học đường trên cơ sở giới; chỉ ra được mối liên hệ giữa bất bình đẳng giới với các hành vi bạo lực trên cơ sở giới và vấn đề an toàn của học sinh trong trường học; Nhận diện và phân tích được ảnh hưởng của các khuôn mẫu/định kiến giới, sự phân biệt đối xử về giới trong các nội dung quản lý, dạy học và giáo dục học sinh để có biện pháp đáp ứng giới phù hợp, thay đổi mối quan hệ giới tích cực và hình thành các hành vi thúc đẩy bình đẳng giới trong lớp/nhà trường; Xác định và vận dụng một số định hướng lồng ghép giới trong quản lý, dạy học và giáo dục học sinh ở trường tiểu học, nhằm xây dựng môi trường học đường an toàn, thân thiện, bình đẳng với mọi học sinh. Tài liệu “Hướng dẫn thành lập và vận hành CLB “thủ lĩnh của sự thay đổi” trong trường trung học cơ sở được phát triển trên cơ sở tài liệu dùng chung do Hội LHPN Việt Nam xây dựng, nhằm hướng dẫn cán bộ quản lý, giáo viên tổng phụ trách đội, đội ngũ dẫn trình viên ở trường trung học cơ sở cách thức thực hiện, quy trình thành lập và vận hành mô hình CLB tại nhà trường để góp phần thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới thông qua phát huy quyền tham gia của học sinh, đặc biệt là học sinh nữ để nâng cao nhận thức, thay đổi định kiến, khuôn mẫu giới, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phản biện các chính sách, chương trình liến quan đến trẻ em và giải quyết có hiệu quả một số vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em vùng DTTS & MN; Tài liệu cũng hướng dẫn các kỹ năng và phương pháp để tổ chức, thực hiện các hoạt động Câu lạc bộ "thủ lĩnh của sự thay đổi" trong trường trung học cơ sở.

- Trên cơ sở các nội dung tập huấn ở cấp Bộ, nhiều địa phương căn cứ vào nguồn lực và điều kiện thực tế để tổ chức triển khai tập huấn cho CBQL, GV các trường PTDTNT, PTDTBT, THCS trên địa bàn. Các trường PTDTNT, PTDTBT đã chủ động tổ chức nghiên cứu, hội thảo, trao đổi sáng kiến kinh nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh DTTS. Một số địa phương đã tổ chức hội nghị giao ban trường PTDTNT, PTDTBT định kỳ nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn giáo dục và định hướng cho công tác lập kế hoạch quản lý, phát triển của các nhà trường.

- Nhiều mô hình Câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi” đã được thành lập trong các trường THCS vùng dự án nhằm đảm bảo tiếng nói, vai trò và sự tham gia của trẻ em trong các hoạt động phát triển kinh tế xã hội tại địa phương. Đây là một chỉ tiêu cốt lõi của Dự án 8 cần đạt trong giai đoạn 2021- 2025, với 1.300 CLB được thành lập, vận hành tại các trường THCS và cộng đồng dân cư địa bàn DTTS &MN. Theo khảo sát nhanh ở các địa phương tính đến tháng 11/2023 đã có trên 300 CLB được thành lập và vận hành ở các nhà trường THCS.

- Bên cạnh đó, Bộ GD&ĐT đã tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên cốt cán về lồng ghép nhiều nội dung giáo dục về kỹ năng sống và bình đẳng giới trong chương trình giáo dục của nhà trường PTDTNT, PTDTBT, cụ thể:

+ Khảo sát, biên soạn, in ấn, cấp phát tài liệu và tổ chức Tập huấn triển khai Thông tư quy định Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú và trường phổ thông dân tộc bán trú;

+ Khảo sát, biên soạn, in ấn, cấp phát tài liệu và tổ chức Tập huấn Nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên về quản lý và tổ chức các hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú;

+ Khảo sát, biên soạn, in ấn, cấp phát tài liệu và tổ chức tập huấn cán bộ quản lý, giáo viên cốt cán trường phổ thông dân tộc nội trú về khởi nghiệp trên cơ sở khai thác các giá trị văn hóa dân tộc.

+ Khảo sát, biên soạn tổ chức Tập huấn Nâng cao năng lực công tác chủ nhiệm cho cán bộ quản lý, giáo viên cốt cán các trường PTDTNT, PTDTBT.

3.2. Tổ chức biên soạn bổ sung các tài liệu, học liệu cấp phát cho học viên và các nhà trường, trong đó, lồng ghép nhiều nội dung giáo dục về kỹ năng sống và bình đẳng giới trong chương trình giáo dục của trường PTDTNT, PTDTBT

Trong giai đoạn 2021-2023, Bộ GD&ĐT đã tổ chức biên soạn nhiều tài liệu hỗ trợ công tác tổ chức, quản lý hoạt động giáo dục của trường PTDTNT, PTDTBT. Các tài liệu được biên soạn tập trung vào nội dung giáo dục đặc thù ở các nhà trường, gồm các tài liệu: tập huấn triển khai Thông tư quy định Quy chế tổ chức và hoạt động của trường PTDTNT, PTDTBT và tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên về quản lý và tổ chức các hoạt động của trường PTDTNT; tài liệu Tư vấn tâm lý học đường cho học sinh DTTS ở trường PTDTNT, PTDTBT; tài liệu nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên các trường PTDTNT, PTDTBT về tổ chức hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh DTTS; tài liệu về phương thức giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề trong trường PTDTNT, PTDTBT; tài liệu nâng cao năng lực công tác chủ nhiệm; tài liệu về khởi nghiệp; tài liệu về thành lập và vận hành câu lạc bộ thủ lĩnh của sự thay đổi; tài liệu lồng ghép giới trong chương trình giáo dục mầm non.   

3.3. Đầu tư hệ thống thông tin, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, phần mềm phục vụ công tác quản lý, dạy học trong các trường PTDTNT, PTDTBT

Trong giai đoạn 2021-2023, nhờ có nguồn lực từ CTMTQG DTTS & MN, các địa phương tiếp tục chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin trong các cơ sở giáo dục và đào tạo nói chung. Đa số các trường PTDTNT, PTDTBT đã được lắp đặt hệ thống internet tốc độ cao, thuận tiện cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và dạy học. Các cơ quan quản lý giáo dục, các nhà trường tích cực triển khai sử các giải pháp công nghệ thông tin trong dạy học, kiểm tra đánh giá, quản lý giáo dục. Đội ngũ giáo viên nhìn chung đều có kiến thức, kĩ năng cơ bản về công nghệ thông tin, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn giảng; nhiều giáo viên sử dụng các phần mềm giả lập, mô phỏng các thí nghiệm hỗ trợ tốt cho việc tiếp thu kiến thức của học sinh.

Nhiều trường PTDTNT, PTDTBT đã tích cực phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ internet nhằm tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp giữa nhà trường với gia đình trong giáo dục học sinh và hỗ trợ học tập trực tuyến.

IV. Những vấn đề đặt ra và đề xuất giải pháp thực hiện lồng ghép giới 

4.1. Đánh giá chung

a) Ưu điểm:

Trong những năm qua, hệ thống các trường học vùng DTTS ngày càng được kiện toàn và phát triển, đặc biệt là các trường PTDTBT, PTDTNT gia tăng về số lượng và quy mô học sinh, không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục. Các trường PTDTBT, PTDTNT thực hiện nội dung, chương trình giáo dục phổ thông theo quy định của Bộ GDĐT, học 2 buổi/ngày thực hiện các hoạt động nội trú cùng với các nội dung giáo dục đặc thù theo chương trình kế hoạch riêng tùy vào điều kiện của mỗi nhà trường. Chất lượng giáo dục của các trường có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ lệ huy động học sinh dân tộc thiểu số trong độ tuổi ra lớp tăng, môi trường học tập đã giúp học sinh DTTS đi học chuyên cần và tiếp cận nhanh hơn với tiếng Việt. Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên rõ rệt, học sinh bỏ học giảm, góp phần quan trọng trong việc củng cố, duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục THCS; nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng biên giới và hải đảo.

Các trường này cũng là những cơ sở giáo dục dẫn đầu vùng DTTS&MN trong các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh DTTS, tuyên truyền, giáo dục và thực hiện hiệu quả các nội dung về giới, bình đẳng giới và bảo đảm quyền của học sinh nữ DTTS. Các trường PTDTNT, PTDTBT đã quan tâm giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử có văn hóa; về giới và bình đẳng giới cho học sinh. Đặc biệt chú trọng giáo dục ý thức đoàn kết giữa các dân tộc, ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Học sinh DTTS, nhất là số học sinh đầu cấp (lớp 1, lớp 6, lớp 10) đã có sự tiến bộ rõ rệt sau một năm học trong môi trường nội trú, các em đã mạnh dạn hơn, có kỹ năng sống trong môi trường tập thể đa dân tộc, sẵn sàng bày tỏ suy nghĩ của bản thân trước thầy cô và bạn bè. Các trường PTDTNT, PTDTBT cũng đã tăng cường các hoạt động giao lưu giữa các nhà trường, các đơn vị, các tổ chức, đoàn thể trong khu vực; kết nghĩa giữa các trường trong cấp học; kết nghĩa với các trường của tỉnh bạn. Các trường tổ chức các buổi dã ngoại, hành quân về nguồn các khu di tích lịch sử; tổ chức các hội thi ca múa nhạc dân tộc vào các ngày lễ tết dân tộc. Với nhiều hình thức và hoạt động phong phú được, công tác tuyên truyền giáo dục về kỹ năng sống, về giới và bình đẳng giới cho học sinh trong các trường PTDTNT, PTDTBT đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

b) Hạn chế, bất cập và nguyên nhân

Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, Lồng ghép giáo dục giới trong các nhà trường phổ thông vùng DTTS còn hạn chế là chất lượng, hiệu quả tuyên truyền giáo dục kỹ năng sống về giới và bình đẳng giới trong các trường PTDTBT, PTDTBT chưa đồng đều. Nguyên nhân cơ bản là do: Cơ sở vật chất các trường PTDTNT, PTDTBT còn nhiều khó khăn; Quy mô học sinh vượt quá điều kiện về cơ sở vật chất của nhiều trường, dẫn đến tình trạng thiếu phòng học, phòng nội trú và các phòng chức năng khác. Nhiều trường thiếu khuôn viên, sân chơi bãi tập, các phòng học bộ môn, nhà tập đa năng, thư viện, công trình phụ trợ (nhà vệ sinh, hệ thống cấp, thoát nước…), ảnh hưởng đến chất lượng dạy học, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục học sinh nội trú, bán trú. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đang công tác ở nhiều trường PTDTNT, PTDTBT chưa có đủ kinh nghiệm cần thiết trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục đặc thù, như: hoạt động ngoài giờ lên lớp, các hoạt động nội trú, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh DTTS… Học sinh DTTS ở nhiều vùng, miền còn rất hạn chế về ngôn ngữ tiếng Việt đang là rào cản không nhỏ cho các trường trong việc tuyên truyền giáo dục học sinh.

- Ở nhiều nơi, sự tham gia, phối hợp của phụ huynh học sinh và cộng đồng với nhà trường trong việc tuyên truyền giáo dục kỹ năng sống, về giới và bình đẳng giới còn rất hạn chế. Chỉ một số ít nhà trường có sự hỗ trợ kinh phí từ các chương trình, dự án thì mới có sự tham gia của phụ huynh và cộng đồng. Nguyên nhân cơ bản là do nhận thức về quyền được học tập, chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em trong một bộ phận nhân dân còn hạn chế, có tư tưởng phó mặc cho nhà trường. Đa phần các trường PTDTBT, PTDTNT được thành lập tại những địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn của vùng DTTS & MN, điều kiện sống của người dân còn nhiều khó khăn, do đó sự quan tâm đầu tư việc học tập cho con em hạn chế.

- Hầu hết các địa phương ở vùng DTTS, MN có tỷ lệ hộ nghèo cao, đa phần các huyện, xã thuộc vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, huyện nghèo thuộc Nghị quyết 30a của Chính phủ, do đó hết sức khó khăn trong việc bố trí nguồn lực phát triển giáo dục và đào tạo. Công tác xã hội hóa giáo dục ở vùng DTTS, MN còn rất hạn chế, chưa huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục tại các địa bàn này.

4.2. Nhiệm vụ, giải pháp

a) Tiếp tục thực hiện hiệu quả các nội dung của Dự án 8 "Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em" và Tiểu dự án 1 thuộc Dự án 5 về Đổi mới hoạt động, củng cố phát triển các trường PTDTNT, trường PTDTBT và xóa mù chữ cho người dân vùng đồng bào DTTS.

- Tiếp tục chỉ đạo và tổ chức đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống, giáo dụng về giới, bình đẳng giới trong phòng chống bạo lực trên cơ sở giới vào các trường PTDTNT, PTDTBT; thực hiện linh hoạt các chương trình giáo dục phù hợp với điều kiện học tập của người học; gắn giáo dục với thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội, đặc điểm văn hoá của địa phương để lồng ghép các nội dung giáo dục kỹ năng sống, giáo dục về giới, bình đẳng giới vào các chương trình, kế hoạch giáo dục nhà trường, nội dung giáo dục địa phương.

- Tiếp tục triển khai Chương trình nâng cao chất lượng dạy học tiếng DTTS trong chương trình giáo dục phổ thông và “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số” nhằm cải thiện đáng kể khả năng sử dụng tiếng Việt, tiếng DTTS cho học sinh DTTS.

- Tăng cường bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên công tác tại trường PTDTNT, PTDTBT về các nội dung giáo dục kỹ năng sống, giáo dục về giới, bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó bạo lực trên cơ sở giới. Tăng cường các chương trình hướng dẫn và tư vấn cho giáo viên nâng cao năng lực làm việc với trẻ em gái DTTS, trẻ em gái có hoàn cảnh đặc biệt dễ bị tổn thương.

b) Tăng cường công tác truyền thông về vấn đề bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo

- Tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ công chức, giáo viên, nhân ngành Giáo dục về công tác bình đẳng giới, nâng cao vị thế của phụ nữ và trẻ em gái DTTS;

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về các quyền bình đẳng của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ vùng nông thôn, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tuyên truyền để cộng đồng cũng như bản thân phụ nữ thấy được tầm quan trọng, lợi ích to lớn và ý nghĩa xã hội của việc đầu tư giáo dục cho phụ nữ là đầu tư cho sự phát triển bền vững.   

- Tăng cường các giải pháp truyền thông, hướng dẫn các trường vùng DTTS&MN đặc biệt là các trường PTDTNT, PTDTBT tuyên truyền với địa phương, cha mẹ học sinh, đồng bào DTTS các kiến thức về giới và bình đẳng giới nhằm loại bỏ các hủ tục lạc hậu liên quan đến phụ nữ DTTS, giảm thiểu tình trạng bỏ học của học sinh nữ DTTS trong độ tuổi THCS và giai đoạn chuyển cấp.

c) Tiếp tục rà soát và giảm thiểu tình trạng bỏ học của học sinh phổ thông, tăng tỷ lệ biết chữ của phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số

- Thống kê, rà soát tình trạng bỏ học của học sinh phổ thông vùng DTTS, MN chia theo nhóm dân tộc để nghiên cứu, đề xuất các biện pháp ngăn chặn tình trạng bỏ học của học sinh DTTS; tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng dạy và học của các trường PTDTNT, PTDTBT;

- Tăng cường bình đẳng giới trong giáo dục đối với các DTTS gắn với mục tiêu 5 trong số 17 mục tiêu phát triển bền vững, rà soát tình trạng biết chữ của phụ nữ DTTS;

- Thống kê về học sinh nữ DTTS trên toàn quốc, có phân tách số liệu theo giới và theo vùng đối với mỗi nhóm DTTS ở tất cả các cấp học để đối chiếu với các chỉ tiêu về bình đẳng giới trong giáo dục vùng DTTS&MN, kịp thời tham mưu với Chính phủ các giải pháp nâng cao vị thế xã hội của phụ nữ, trẻ em gái DTTS.

d) Rà soát, điều chỉnh, xóa bỏ định kiến giới trong chương trình giáo dục và sách giáo khoa

- Tiếp tục chỉ đạo thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng chính sách pháp luật về giáo dục và đào tạo; trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch hoạt động của ngành Giáo dục; cũng như trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, đào tạo.

- Thực hiện lồng ghép giới trong đổi mới chương trình- sách giáo khoa và các tài liệu, hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông đối với các trường học vùng DTTS&MN, đặc biệt là các tài liệu bổ trợ.

- Chỉ đạo các sở GD&ĐT triển khai các hoạt động nhằm thúc đầy thực hiện công bằng, bình đẳng giới trong giáo dục, thu hẹp khoảng cách giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong tiếp cận giáo dục; tăng tỷ lệ biết chữ của trẻ em gái và phụ nữ DTTS ở những vùng khó khăn.

đ) Đánh giá thực trạng đưa nội dung giới vào chương trình giảng dạy chính thức ở các cơ sở đào tạo giáo viên của Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030; đề xuất các giải pháp cụ thể đưa nội dung về giới, bình đẳng giới vào chương trình giảng dạy chính thức ở các cơ sở đào tạo giáo viên từ năm 2025.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình phát triển GDTrH giai đoạn 2 (2023). Tài liệu phân tích chính sách về thực hiện Bình đẳng giới trong giáo dục.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2022). Báo cáo tình hình thực hiện giáo dục bình đẳng giới vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018). Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ban hành Chương trình giáo dục phổ thông.

4. Chính phủ (2020). Báo cáo các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) quốc gia năm 2020.

5. Chính phủ (2021). Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021, Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025.

6. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2022). Tài liệu thành lập quản lý và vận hành mô hình Câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi”, NXB phụ nữ Việt Nam.


[1] Chương trình phát triển Giáo dục Trung học giai đoạn 2 (2023), Tài liệu phân tích chính sách về thực hiện Bình đẳng giới trong giáo dục.

Bộ Giáo dục và Đào tạo
(Nguồn: Hội LHPN Việt Nam, 2023. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Phát huy vai trò của phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới” nhằm sơ kết 5 năm Chỉ thị 21-CT/TW ngày 20 tháng 01 năm 2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới).

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video