Vấn đề giới trong tiếp cận, thụ hưởng chính sách và giải pháp tăng cường tiếp cận, thụ hưởng chính sách của phụ nữ dân tộc thiểu số

08/12/2025
Trong những năm qua, bình đẳng giới (BĐG) và trao quyền cho phụ nữ luôn được Đảng, Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt và xác định là một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Điều này được thể hiện xuyên suốt trong các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực tiễn cuộc sống.
Ảnh minh hoạ (Nguồn: baocaobang.vn)

I. Đặt vấn đề

Trong những năm qua, bình đẳng giới (BĐG) và trao quyền cho phụ nữ luôn được Đảng, Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt và xác định là một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Điều này được thể hiện xuyên suốt trong các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực tiễn cuộc sống.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác phụ nữ nhằm cụ thể hóa quan điểm BĐG đã được nêu trong Cương lĩnh, Nghị quyết Đại hội Đảng các nhiệm kỳ, như: Nghị quyết 11/NQ/TW ngày 27/04/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chỉ thị 21/CT-TW ngày 20/1/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng nhấn mạnh: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế...”. 

Từ các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã cụ thể hóa nhiều chính sách, pháp luật nhằm tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi để phụ nữ tham gia tích cực vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền của phụ nữ và thúc đẩy BĐG cũng đã được luật hoá vào hệ thống văn bản pháp luật quốc gia (Luật BĐG, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Giáo dục, Luật Khám bệnh, chữa bệnh…), Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2030, trong đó xác định mục tiêu “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước”…

Đặc biệt, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực đẩy mạnh các chính sách nhằm tăng cơ hội cho phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) tiếp cận tốt hơn với các nguồn lực xã hội, đảm bảo tính công bằng, góp phần củng cố vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, nơi có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh, quốc phòng của đất nước. Năm 2019, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2019/QH14 phê duyệt Đề án tổng thể và Nghị quyết số 120/2020/QH14 phê duyệt Chủ trương đầu tư Chương trình MTQG phát triển KTXH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, trong đó, thực hiện BĐG được xác định là một trong những mục tiêu tổng quát của Chương trình. Ngoài ra, các chương trình, đề án, dự án mang tính đặc thù riêng như: Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào DTTS giai đoạn 2015 - 2025”, Đề án “Hỗ trợ hoạt động BĐG vùng DTTS giai đoạn 2018 - 2025”… được triển khai cũng đã góp phần hỗ trợ cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các DTTS nói chung và phụ nữ DTTS miền núi nói riêng, mở ra nhiều cơ hội cho người dân phát triển kinh tế, tiếp cận và sử dụng các dịch vụ xã hội, tạo sự chuyển biến tích cực trong thực hiện BĐG và nâng cao vị thế của phụ nữ ở vùng DTTS miền núi.

Trên cơ sở các quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc, thời gian qua, công tác vận động phụ nữ DTTS đã được Hội LHPN các cấp coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt các nhiệm kỳ Đại hội và được cụ thể hóa thành các Nghị quyết, chương trình, dự án như: Nghị quyết số 06/NQ-BCH ngày 19/2/2014 về “Tăng cường công tác vận động phụ nữ DTTS, phụ nữ theo tôn giáo trong tình hình hiện nay của Ban Chấp hành TW Hội LHPN Việt Nam nhiệm kỳ 2012-2017, Chương trình hành động số 12-CTr/ĐĐ ngày 11/5/2018 về “Thực hiện các quan điểm chỉ đạo của TW Đảng về công tác dân tộc, tôn giáo trong tình hình mới” của Đảng đoàn TW Hội LHPN Việt Nam. Cụ thể hoá Nghị quyết và Chương trình hành động, Hội LHPN Việt Nam đã tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ và giải pháp quan trọng như: Phối hợp với Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng triển khai Chương trình "Đồng hành cùng phụ nữ biên cương" giai đoạn 2018 - 2020 và 2021-2025 nhằm vận động xã hội chung tay hỗ trợ phụ nữ và trẻ em các xã miền núi, biên giới đảm bảo an sinh, phát triển kinh tế. Đặc biệt, Hội đã đề xuất, vận động phê duyệt Dự án 8 “Thực hiện BĐG và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” trong “Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030”. Dự án do Hội LHPN Việt Nam chủ trì triển khai thực hiện đã góp phần nâng cao nhận thức, thay đổi định kiến giới, khuôn mẫu giới, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho phụ nữ và trẻ em; nâng cao khả năng tiếp cận, thụ hưởng chính sách của phụ nữ DTTS.  

Mặc dù đạt nhiều thành tựu về thúc đẩy BĐG được Liên Hợp quốc và cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, nhưng khoảng cách giới vẫn còn khá lớn ở những lĩnh vực quan trọng, đang cản trở nỗ lực thực hiện những chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung của Việt Nam. 

II. Vấn đề giới trong tiếp cận, thụ hưởng chính sách của phụ nữ DTTS

2.1. Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo

Qua rà soát, thống kê của Ủy ban Dân tộc, tính đến tháng 5/2021, trong chính sách ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, đã có 3 luật với 14 điều liên quan đến vùng đồng bào DTTS[1], bao gồm các chính sách về về phát triển giáo dục, phát triển giáo dục đào tạo nói chung và phát triển giáo dục dân tộc nói riêng, phổ cập giáo dục tiểu học; giáo dục, bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em, quyền được dùng ngôn ngữ trong giáo dục; các ưu tiên giáo dục, đào tạo cho DTTS thông qua chính sách cử tuyển, hỗ trợ học sinh, sinh viên DTTS diện nghèo; chính sách phát triển hệ thống các trường dân tộc nội trú, bán trú… Tính chung, trong giai đoạn từ 2010-2017, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đã ban hành 42 văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục DTTS và miền núi hoặc có liên quan đến giáo dục DTTS và miền núi được thực hiện[2]. Các chính sách về giáo dục, đã và đang góp phần quan trọng, tạo điều kiện cho đồng bào nói chung, cho phụ nữ và trẻ em nói riêng được học tiếng phổ thông, học văn hóa, được giao lưu và tiếp cận thông tin, khoa học kỹ thuật. Theo kết quả Điều tra thực trạng KTXH 53 DTTS (2019), đã có 100% xã vùng DTTS&MN có trường THCS, trường tiểu học; Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở tiểu học là 96,9%; Trung bình mỗi năm huy động được khoảng 30 nghìn người từ 15-60 tuổi tham gia các lớp học xóa mù chữ trong đó phần đông là phụ nữ. Về chế độ cử tuyển, đến năm 2019, đã có 51/53 DTTS có học sinh, sinh viên cử tuyển; Giai đoạn từ 2010 đến nay các DTTS rất ít người đã được ưu tiên tuyển sinh, thực hiện chế độ cử tuyển và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên, nhờ đó đã góp phần đáng kể trong việc cải thiện chất lượng nhân lực của các dân tộc này. Có tổng số gần 525 nghìn giáo viên đang giảng dạy tại các trường học và điểm trường vùng DTTS, tăng hơn 132 nghìn người so với năm 2015, trong đó hơn ¼ số giáo viên là người DTTS và gần 1/5 số giáo viên là nữ người DTTS. 03 tỉnh có tỷ lệ giáo viên là người DTTS và tỷ lệ giáo viên là nữ DTTS cao nhất cả nước là Cao Bằng, Bắc Kạn và Lạng Sơn…

Tuy nhiên, vấn đề giới vẫn đang tồn tại trong tiếp cận chính sách giáo dục liên quan đến tỷ lệ biết chữ, cơ hội tiếp cận hệ thống giáo dục chất lượng cao, nguồn lực đầu tư cho giáo dục và cơ hội tiếp cận giáo dục của phụ nữ trung niên DTTS… Cụ thể, tỷ lệ biết đọc, biết viết chữ phổ thông của người nữ DTTS vẫn thấp hơn so với nam DTTS (75,1% so với 86,7%) và thấp hơn đáng kể so với phụ nữ dân tộc Kinh (94,6%). Tỷ lệ thành viên nữ DTTS có bằng thạc sỹ, tiến sỹ cũng thấp chỉ đạt 0,03%. Ở nhóm tuổi càng cao thì tỷ lệ người DTTS, đặc biệt nữ DTTS, biết đọc, biết viết chữ phổ thông càng thấp. Trong nhóm từ 35-44 tuổi, có tới 30,3% phụ nữ DTTS không biết đọc, biết viết chữ phổ thông. Đây là rào cản đối với phụ nữ trung tuổi trong tham gia vào các chính sách về đào tạo nghề, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư được tổ chức thường xuyên ở địa phương[3]. Việc đầu tư cho giáo dục của nhóm DTTS còn thấp và có sự chênh lệch giữa nam và nữ, khoảng 1,6 triệu đồng/người/năm cho thành viên nam đi học và 1,5 triệu đồng/ người/năm cho thành viên nữ đi học[4]… Nhiều phụ nữ thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo, vừa tham gia lao động sản xuất ngoài xã hội, vừa trực tiếp chăm lo công việc gia đình nên cường độ, thời gian lao động đối với họ là quá tải, mức thu nhập lại thấp nên họ không có cơ hội học tập, mở mang kiến thức.

2.2. Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ

 Đặc thù của vùng DTTS&MN là địa hình đi lại khó khăn, trình độ còn thấp, nhiều hủ tục lạc hậu tồn tại… do đó, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư các chính sách đặc thù để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe (CSSK) - sức khỏe sinh sản (SKSS). Tính đến năm 2020, đã có 06 Luật với 15 Điều có nội dung quy định các chính sách liên quan đến lĩnh vực y tế, CSSK vùng DTTS được triển khai và đã đạt được những kết quả quan trọng[5]. Trên bình diện chung, tỷ lệ người DTTS tham gia BHYT hiện đạt ở mức cao (93,5%), trong đó tỷ lệ nữ DTTS sử dụng thẻ BHYT khi khám chữa bệnh cao hơn 6,3 điểm phần trăm so với nam DTTS. Về chăm sóc SKSS, thực hiện kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ), đã có 88% phụ nữ DTTS mang thai có đến các cơ sở y tế để khám thai trong lần sinh gần nhất. Ở một số dân tộc có tỷ lệ phụ nữ khám thai cao như dân tộc Thổ (98,3%), Tà Ôi (97,8%)[6]Ngoài ra, trong hỗ trợ phụ nữ DTTS tiếp cận dịch vụ y tế, Chính phủ đã ban hành, triển khai chính sách phát triển đội ngũ cô đỡ thôn, bản. Tính đến hết năm 2020, cả nước đã có 2.632 cô đỡ thôn bản người DTTS được đào tạo, đang hoạt động ở những vùng đặc biệt khó khăn[7] góp phần đáng kể vào việc giảm tử vong mẹ và trẻ em ở những địa bàn này. Đặc biệt, cũng trong lĩnh vực CSSK, từ năm 2015 Chính phủ ban hành Nghị định số 39/2015/NĐ-CP quy định chính sách riêng hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người DTTS khi sinh con đúng chính sách dân số với mức hỗ trợ 2 triệu đồng/người. Qua triển khai cho thấy, chính sách đi vào đời sống, tạo động lực trong việc thúc đẩy thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình ở những vùng khó khăn, nhất là việc giảm thiểu tình trạng sinh con thứ ba, góp phần cải thiện đời sống, nâng cao sức khỏe cho phụ nữ vùng DTTS.

Tuy nhiên, lĩnh vực CSSK nói chung và SKSS nói riêng cho phụ nữ DTTS hiện vẫn còn khoảng cách đáng kể. Theo Kết quả Điều tra thực trạng KTXH 53 DTTS (2019), mặc dù tỷ lệ phụ nữ DTTS có thẻ BHYT hoặc số thẻ khám chữa bệnh miễn phí là 89,9%, tuy nhiên, do không thông thạo tiếng phổ thông, e ngại khi đi khám, chữa bệnh và phải phụ thuộc vào người khác khi làm các thủ tục khám, chữa bệnh nên hiệu quả chưa cao (hiện mới có 46,8% phụ nữ DTTS sử dụng thẻ BHYT khi khám chữa bệnh).

Mặc dù tỷ lệ phụ nữ DTTS đi khám thai tăng, song tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản vẫn còn cao gấp 3 lần so với cả nước, một số nhóm DTTS cao gấp 4 lần so với phụ nữ Kinh. Ngoài ra, phụ nữ DTTS tại một số vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại khó khăn, thay vì tới các cơ sở y tế, họ chọn sinh đẻ tại nhà. Đáng chú ý, một số nhóm DTTS có tỷ lệ phụ nữ sinh con tại nhà không có cán bộ chuyên môn đỡ còn ở mức rất cao như Mảng 50,6%, Cống 37,0%, La hủ 36,5% và La Ha 30%... Điều này không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe bà mẹ, trẻ em mà họ cũng mất đi cơ hội được CSSK, sức khỏe sinh sản có chất lượng tại các cơ sở y tế, thụ hưởng chính sách ưu việt trong chăm sóc và khám, chữa bệnh.

2.3. Trong lĩnh vực lao động, việc làm, tiếp cận nguồn lực

Các chính sách trong lĩnh vực lao động, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, tiếp cận nguồn lực được cho là giải pháp căn bản để tạo sinh kế bền vững cho phụ nữ và đồng bào DTTS, là “chìa khóa” để các địa phương mở những nút thắt lâu nay trong việc thực hiện mục tiêu ổn định và nâng cao đời sống, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng miền. Giai đoạn từ 2011 đến 2020, Nhà nước ta có 20 Luật, trong đó có 51 Điều có nội dung liên quan đến các chính sách thúc đẩy phát triển KTXH vùng dân tộc, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn[8] (chính sách ưu đãi đầu tư, quản lý đất đai, bảo vệ và phát triển rừng; xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới cho vùng DTTS&MN; phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo, lao động, việc làm cho vùng đồng bào dân tộc...). Ngoài ra, Chính phủ có các chương trình, đề án đặc thù[9] nhằm góp phần nâng cao tỷ lệ lực lượng lao động nữ DTTS đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Theo kết quả, theo Điều tra thực trạng KTXH 53 DTTS (2019), lực lượng lao động của 53 DTTS là hơn 8 triệu người, trong đó lao động nữ DTTS là hơn 3,8 triệu người, chiếm 47,9%. So với năm 2015, tỷ lệ lao động nữ DTTS qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật năm 2019 đã tăng lên 3,2 điểm phần trăm...

Về tiếp cận tín dụng, các chính sách cho vay đối với hộ DTTS nghèo về phát triển kinh tế, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường… góp phần nâng cao đời sống, đảm bảo, thúc đẩy thực hiện các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội cho đồng bào nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng. Điều tra thực trạng KTXH 53 DTTS (2019) cho thấy, tỷ lệ hộ DTTS được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội chiếm 19,7% tổng số hộ DTTS, trong đó ở một số DTTS, tỷ lệ nữ làm chủ hộ được vay vốn cao hơn nam giới (Ơ Đu: nam 58,4%, nữ 78,3%; Si La: nam 47,3%, nữ 48,6%)… Tỷ trọng chủ hộ nữ DTTS được vay vốn với số tiền từ 20 triệu trở xuống là 35%, cao hơn đáng kể so với tỷ lệ tương ứng của chủ hộ DTTS là nam được vay là 27,1%. Về mục đích, cơ hội tiếp cận chính sách vay vốn đã góp phần không nhỏ giúp cho các hộ gia đình và phụ nữ DTTS phục vụ cho việc mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế gia đình, đầu tư cho giáo dục: 79,9% chủ hộ nữ vay vốn với mục đích để mở rộng sản xuất; 13,9% chủ hộ nữ DTTS có nhu cầu vay để trả nợ, 18,2% nữ DTTS có nhu cầu vay để tiêu dùng, 8,3% nữ vay để đi học, 7,5% nữ DTTS vay để chữa bệnh…).

Bên cạnh những nỗ lực đạt được, phụ nữ DTTS vẫn đang đối mặt với nhiều rào cản. Đa số phụ nữ DTTS làm các công việc không ổn định, dễ bị tổn thương - nhiều hơn so với lao động nam DTTS và lao động nữ người Kinh. Theo Điều tra thực trạng KTXH 53 DTTS (2019), vẫn còn 76,4% việc làm của lao động nữ DTTS trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, cao hơn gần 6 điểm phần trăm so với lao động nam DTTS (70,5%) và cao gấp đôi so với lao động nữ cả nước (35,9%). Có 24/53 DTTS có tỉ trọng việc làm của lao động nữ trong nông, lâm nghiệp chiếm trên 90%. Về vị thế trong việc làm, tỷ lệ lao động nữ DTTS làm các công việc “lao động gia đình không hưởng lương” là 52,0%, cao gấp gần 2 lần so với tỷ lệ này của lao động nam DTTS là 26,6% và cao gấp hơn 2,5 lần so với lao động nữ cả nước 19,4%. Đây là nhóm công việc không ổn định, điều kiện làm việc kém hơn so với việc làm ở các khu vực khác và không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc. Tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở lên năm 2019 là 10,3% (nam 11,7%, nữ 8,9%), chưa bằng 1/2 so với tỷ lệ chung của cả nước.

Ngoài ra, phụ nữ DTTS thường có xu hướng lao động sớm, hoạt động sinh kế của phụ nữ DTTS phụ thuộc nhiều vào đất đai, song phụ nữ DTTS vùng sâu, vùng xa lại rất thiếu cơ hội tiếp cận bình đẳng tới nguồn tài nguyên đất và vốn. Họ có rất ít cơ hội tự quyết định vấn đề có ảnh hưởng tới cuộc sống. Trong mối quan hệ gia đình, nam giới vẫn đóng vai trò chủ đạo. Nữ giới thường là chủ hộ trong các hộ thiếu vắng nam giới. Bên cạnh đó, những định kiến truyền thống về vai trò nam - nữ khiến phụ nữ DTTS gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận thị trường và ra các quyết định liên quan đến sinh kế.

Bên cạnh đó, từ rào cản về tri thức, phụ nữ DTTS thường ít thông tin về các quyền được tham gia và hưởng lợi từ các chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất ở địa phương, ít được tham gia các khóa tập huấn nâng cao năng lực hay đứng tên vay vốn tín dụng ưu đãi. Các chính sách hỗ trợ cho vùng đồng bào DTTS cũng ít đề cập đến vai trò của phụ nữ DTTS trong xây dựng, thực hiện, giám sát - đánh giá các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển KTXH địa phương. Phụ nữ DTTS ít tham gia các tổ chức xã hội, đoàn thể, nên đa số chưa nhận thức đầy đủ về giá trị bản thân; chưa mạnh dạn vươn lên trong học tập và phát triển sinh kế, cải thiện việc làm và thu nhập.

2.4. Trong lĩnh vực văn hoá, thông tin và trợ giúp pháp lý

Các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực văn hóa - thông tin đã được Nhà nước triển khai thực hiện có hiệu quả thông qua 13 luật với tổng 22 điều đề cập liên quan đến DTTS, trong đó tập trung vào các vấn đề: bảo vệ, phát huy các giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa các DTTS; xuất bản các ấn phẩm liên quan đến DTTS; bảo vệ các di sản văn hóa của các cộng đồng các DTTS; tăng cường tiếp cận thông tin, phổ biến giáo dục pháp luật cho vùng đồng bào DTTS[10]… Các chính sách phát triển về lĩnh vực thông tin văn hoá, ứng dụng công nghệ, trợ giúp pháp lý… ở vùng DTTS bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định. Giai đoạn 2019 - 2021, đã có gần 34 triệu ấn phẩm báo, tạp chí không thu tiền cung cấp cho hơn 424,5 ngàn đối tượng vùng đồng bào DTTS và miền núi đặc biệt khó khăn (trong đó có ấn phẩm Chuyên san Phụ nữ DTTS và miền núi). Ngoài ra, điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy, đã có tới 92,5% hộ gia đình DTTS có sử dụng điện thoại (trong đó hộ có nữ chủ hộ là 88,4%), đã có 10,3% hộ gia đình DTTS có sử dụng máy vi tính (trong đó chủ hộ là nữ 14,3% cao hơn so với gia đình có chủ hộ là nam/9,1%), có 61,3% hộ gia đình DTTS có sử dụng Internet (trong đó chủ hộ nam: 61,4%; chủ hộ nữ: 59,9%...). Đây là bước phát triển nổi bật trong thụ hưởng, tiếp cận chính sách thuộc lĩnh vực phát triển công nghệ số/công nghệ thông tin ở vùng DTTS. 

Tuy nhiên, do rào cản ngôn ngữ, phụ nữ DTTS gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận đầy đủ thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thêm vào đó, các chính sách truyền thông và hỗ trợ pháp lý vẫn còn chung chung, chưa có tính đặc thù đối tượng là nữ và ở vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn. Các hoạt động truyền thông vẫn mang tính chất phong trào, chưa đi sâu vào thực chất do thiếu kinh phí, thực hiện chưa đúng phương pháp và chưa kịp thời với những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Mặc dù tỷ lệ người DTTS có trang thiết bị để tiếp cận được thông tin chiếm tỷ lệ khá cao, nhưng mức độ, hiệu quả sử dụng các trang thiết bị này có sự khác biệt giữa vùng thành thị và nông thôn và giữa các dân tộc. Do đó, khi thực hiện truyền thông về BĐG cần chú ý tới sự khác biệt này để đảm bảo tính linh hoạt và bình đẳng giữa các nhóm đối tượng.

Về khả năng tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý của đồng bào nói chung và đặc biệt là phụ nữ DTTS nói riêng vẫn đang được coi là một trong những khó khăn, thách thức lớn với nhiều yếu tố cản trở. Rào cản ngôn ngữ là cản trở khá đặc thù đối với phụ nữ DTTS trong tiếp cận dịch vụ pháp lý. Mặc dù theo pháp luật hiện hành, người DTTS, trong đó có phụ nữ có quyền tham gia tố tụng bằng ngôn ngữ của dân tộc mình. Tuy nhiên, để tham gia tranh tụng họ phải làm việc trực tiếp với luật sư- hầu hết là những người không biết tiếng DTTS. Khó khăn, mặc cảm trong việc chia sẻ thông tin đã làm giảm mong muốn tiếp cận dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS. Ngoài ra, phong tục tập quán, định kiến và khuôn mẫu giới cũng là những rào cản đối với phụ nữ DTTS trong việc tìm đến các dịch vụ trợ giúp pháp lý, đặc biệt là những vấn đề pháp lý liên quan đến các hành vi bạo lực, phân biệt đối xử, hay những vụ án hình sự. Nếu không có sự trợ giúp pháp lý phù hợp, phụ nữ DTTS cũng sẽ cam lòng im lặng, chịu những thiệt hại, tổn thất đã gánh chịu ngay cả khi được cung cấp dịch vụ miễn phí[11].

Nhìn chung, phụ nữ DTTS vẫn hạn chế hơn trong tiếp cận và thụ hưởng các chính sách của Đảng và Nhà nước tại hầu hết các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó có tính dễ bị tổn thương kép của phụ nữ DTTS: vừa là phụ nữ, vừa là người DTTS. Các chính sách chưa thực sự nhìn nhận phụ nữ DTTS là một nguồn lực quan trọng của sự phát triển để có những giải pháp mang tính đặc thù. Lồng ghép giới trong xây dựng chính sách nói chung, chính sách dành cho vùng DTTS nói riêng còn hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức, việc thực hiện còn mang tính hình thức, đối phó. Lý do chủ yếu là thiếu chế tài ràng buộc; không có ngân sách dành riêng cho lồng ghép giới hoặc các hoạt động cụ thể về giới; thiếu sự hỗ trợ từ phía các chuyên gia kỹ thuật; thiếu các công cụ lồng ghép giới phù hợp với từng lĩnh vực. Chính vì vậy, mục tiêu BĐG ở quan điểm, chủ trương thì rất lớn, nhưng hiệu quả triển khai trong thực tiễn còn thấp.

Ngoài ra, hệ thống chính sách liên quan tới BĐG và chính sách đối với đồng bào DTTS hầu như chưa được xây dựng theo quan điểm lồng ghép yếu tố giới và đặc thù DTTS; dẫn tới tình trạng chính sách BĐG thì không tính đến đặc thù cho đối tượng là phụ nữ DTTS, còn chính sách cho vùng DTTS lại không tính đến yếu tố giới. Vì vậy, phụ nữ DTTS dường như vẫn nằm ở điểm khuất của góc khuất, ít cơ hội tiếp cận chính sách nói chung.

III. Đề xuất giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận và thụ hưởng chính sách của phụ nữ DTTS

3.1. Đối với Đảng, Nhà nước, cơ quan Nhà nước và cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể địa phương

- Tiếp tục tăng cường chỉ đạo, tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, đầu tư nguồn lực triển khai có hiệu quả các Chương trình MTQG ở vùng đồng bào DTTS miền núi biên giới, đặc biệt là Chương trình MTQG phát triển KTXH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1: 2021 đến năm 2025:

+ Chỉ đạo các cấp, các ngành có cơ chế phối hợp chặt chẽ với Hội LHPN Việt Nam trong triển khai hiệu quả Dự án 8 “Thực hiện BĐG và giải quyết các vấn đề cấp thiết với phụ nữ, trẻ em”;

+ Chú trọng áp dụng nguyên tắc lồng ghép giới và triển khai thực hiện chính sách lồng ghép giới xuyên suốt trong các Dự án, tiểu dự án thuộc các Chương trình với hoạt động về khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng đồng bào DTTS và miền núi; đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống; quy hoạch, sắp xếp, bố trí ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KTXH đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; cải thiện đời sống của nhân dân; nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là người DTTS; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các DTTS đi đôi với xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước…

- Tăng cường nguồn lực và chỉ đạo, phối hợp, thực hiện có hiệu quả hoạt động truyền thông, cung cấp thông tin, phổ biến pháp luật về BĐG bằng nhiều hình thức, tư vấn, can thiệp, hỗ trợ, xây dựng mô hình điểm nhằm nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật, chuyển đổi hành vi của phụ nữ và đồng bào DTTS về BĐG, tiến tới nhằm xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới trong cộng đồng các DTTS; Ưu tiên và tăng cường nguồn lực trong triển khai các chính sách trên các địa bàn có biểu hiện, nguy cơ cao bất BĐG; Lồng ghép vào các chương trình, kế hoạch khác đã và đang triển khai để đảm bảo không chồng chéo, tiết kiệm, hiệu quả nhằm nâng cao vị thế, vai trò của phụ nữ DTTS trong gia đình, xã hội, giảm khoảng cách về giới. Bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác dân tộc và BĐG ở cấp cơ sở. Duy trì và nhân rộng các mô hình hay, hiệu quả về BĐG tại cấp cơ sở. Huy động các nguồn lực từ cộng đồng, các tổ chức quốc tế trong và ngoài nước tham gia thực hiện các hoạt động về thực hiện chính sách và BĐG tại vùng DTTS…

3.2. Đối với Hội LHPN các cấp

- Về tuyên truyền, vận động: Tiếp tục chỉ đạo và triển khai có hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ DTTS thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; các diễn đàn đối thoại chính sách, đối thoại với người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền để phụ nữ DTTS tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và thực thi các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Ưu tiên tuyên truyền, vận động triển khai thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”/5 có 3 sạch và Phong trào thi đua “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới” với các tiêu chí cụ thể, phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy hệ giá trị văn hóa, giá trị các DTTS; Chỉ đạo Hội LHPN các cấp đẩy mạnh các hoạt động truyền thông và duy trì, tổ chức hiệu quả “Ngày Phụ nữ với pháp luật” với các hình thức đa dạng như hỗ trợ pháp lý, phiên toà giả định, diễn đàn đối thoại chính sách…; khuyến khích các tầng lớp phụ nữ vùng DTTS mạnh dạn, tự tin, chủ động học tập, nâng cao năng lực, trình độ, đáp ứng yêu cầu phát triển KTXH, góp phần tham gia có hiệu quả vào Chương trình hỗ trợ một triệu phụ nữ nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, tiếp cận Chính phủ số… Hình thức tuyên truyền, vận động hướng tới sự đổi mới, tăng tính tương tác, bắt kịp xu hướng phát triển của truyền thông hiện đại; đa dạng hóa các sản phẩm và phương thực truyền thông theo nhóm đối tượng, chú trọng biên soạn, biên dịch tiếng dân tộc/phù hợp với ngôn ngữ đồng bào DTTS…

- Tiếp tục chỉ đạo, vận động xã hội thực hiện BĐG ở vùng DTTS: Tập trung nghiên cứu và dự báo chiến lược về các vấn đề BĐG và sự tiến bộ của phụ nữ; thực hiện tốt Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2021 - 2030; tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 11- NQ/TW và Chỉ thị số 21-CT/TW của Ban Bí thư (khóa XII) về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới; tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực, kỹ năng cho đội ngũ nữ lãnh đạo, quản lý, trong đó, tập trung xây dựng và triển khai chương trình bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và kỹ năng lồng ghép giới cho 3.500 cán bộ nữ…. Chú trọng các hoạt động xây dựng năng lực vận động, thực hiện BĐG cho các tỉnh/thành thuộc vùng đồng bào DTTS và miền núi: Xây dựng đội ngũ giảng viên nguồn cấp tỉnh để thực hiện các chương trình phát triển năng lực thực hiện lồng ghép giới tại các địa phương; Tập huấn hướng dẫn thực hiện lồng ghép giới cho cán bộ trong hệ thống chính trị, đại biểu dân cử các cấp…

- Nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đề xuất chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và BĐG ở vùng DTTS, trong đó, thường xuyên cập nhật quy định pháp luật, chính sách hiện hành, đồng thời, phát hiện vấn đề từ thực tiễn, các vấn đề thiết thân của phụ nữ DTTS; chú trọng phát huy vai trò đại diện của tổ chức Hội, của cán bộ Hội các cấp vùng DTTS; thực hiện nhiệm vụ dựa trên bằng chứng và kết quả nghiên cứu khoa học; đẩy mạnh tính chủ động, thống nhất, phối hợp hành động để thực hiện tốt vai trò đại diện của tổ chức Hội trong chu trình xây dựng, thực thi, giám sát chính sách, pháp luật liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và BĐG ở vùng DTTS.

- Về nguồn lực: Tiếp tục định hướng chỉ đạo Hội LHPN các cấp chủ động, sáng tạo trong ưu tiên đầu tư, huy động nguồn lực (nội lực và ngoại lực), khai thác các nguồn vốn vay, lồng ghép trong triển khai các Chương trình MTQG về giảm nghèo, xây dựng Nông thôn mới; Cuộc vận động xây dựng gia đình 5 có 3 sạch,  Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án 939 “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025”; Đề án 01 của Chính phủ về “Hỗ trợ HTX do phụ nữ tham gia quản lý và tạo việc làm cho lao động nữ giai đoạn 2022 - 2030”… thông qua các định hướng, ưu tiên, khuyến khích các ý tưởng khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh; xây dựng các mô hình khởi nghiệp trong hội viên phụ nữ vùng DTTS, hỗ trợ phụ nữ DTTS nghèo, có hoàn cảnh khó khăn… Phối hợp nguồn lực thuộc Dự án 8 - Chương trình MTQG DTTS với việc triển khai thực hiện các chính sách cụ thể, thiết thực, tăng cường vận động, kết nối với các tổ chức, doanh nghiệp, nhà tài trợ hưởng ứng, hỗ trợ nguồn lực cho địa bàn các xã vùng DTTS đặc biệt khó khăn... Chủ động phối hợp với các bộ, ban, ngành hỗ nguồn lực trợ phát triển các mô hình giảm nghèo bền vững thông qua các hoạt động hỗ trợ vay vốn, tăng các nguồn lực đầu tư khác cho mô hình tập trung: xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, kết nối cung cầu sản phẩm...

- Cấp TW: kịp thời, nghiêm túc chỉ đạo rà soát các chương trình, dự án dành cho phụ nữ khu vực DTTS miền núi, trong đó, trọng tâm là các hoạt động sơ kết giai đoạn 1 Dự án 8 “Thực hiện BĐG và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” trong Chương trình MTQG DTTS nhằm đánh giá kết quả và điều chỉnh, đề xuất các phương hướng phù hợp trong đầu tư triển khai thực hiện dự án.

Tiếp tục phối hợp với Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng chỉ đạo triển khai có hiệu quả Chương trình Đồng hành cùng phụ nữ Biên cương giai đoạn 2021-2025 thông qua các hoạt động vận động thực hiện chính sách; tích cực vận động hỗ trợ, kết nối các đơn vị, tổ chức, cá nhân hỗ trợ, đồng hành cùng với Hội triển khai hoạt động hỗ trợ phụ nữ nghèo vùng DTTS; Tổ chức đánh giá tổng kết vào năm 2025 làm cơ sở tiếp tục xây dựng Chương trình, hoạt động hỗ trợ cho giai đoạn tiếp theo…

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. TW Hội LHPN Việt Nam, 2019. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Thách thức và giải pháp để phụ nữ DTTS không bị bỏ lại phía sau. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. TW Hội LHPN Việt Nam, 2020. Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án 8:Thực hiện BĐG và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em”. Hà Nội.

3. TW Hội LHPN Việt Nam, 2022. Tài liệu Hội nghị tập huấn, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII. Hà Nội.

4. Ủy ban Dân tộc, UN Women, 2021. Số liệu về phụ nữ & nam giới các dân tộc ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019 (Qua kết quả Điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế xã hội của 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam). Nxb Thanh Niên.

5. Ủy ban Dân tộc, Học viện Dân tộc, 2021. Tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp luật về dân tộc và công tác dân tộc. Hà Nội.

6. Kết quả điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 2016.

7. Trợ giúp pháp lý cho người DTTS, thực trạng và giải pháp tại https://tgpl.moj.gov.vn/Pages/hoi-nhap-phat-trien.aspx?ItemID=1918&l=Nghiencuutraodoi - Trợ giúp pháp lý Việt Nam - Bộ Tư pháp.


[1] Ủy ban Dân tộc, Học viện Dân tộc. Tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp luật về dân tộc và công tác dân tộc. Hà Nội. 2021.

[2] Tiêu biểu có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục 2009 có 1số điều khoản quy định chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển giáo dục vùng DTTS&MN, vùng ĐBKK; Nghị định số 116/2016/NĐ-CP quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn ĐBKK; Nghị định 57/2017/NĐ-CP hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc…

[3] Kết quả điều tra thực trạng KTXH 53 DTTS năm 2019.

[4] Kết quả điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 2016.

[5] Ủy ban Dân tộc, Học viện Dân tộc. Tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp luật về dân tộc và công tác dân tộc. Hà Nội. 2021.

[6] Kết quả điều tra thực trạng KTXH 53 DTTS năm 2019.

[7] Báo cáo số 855/BC-UBDT, ngày 3/6/2022, của Ủy ban Dân tộc “Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc”.

[8] Ủy ban Dân tộc, Học viện Dân tộc. Tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp luật về dân tộc và công tác dân tộc. Hà Nội. 2021.

[9] Quyết định 267/2005/QĐ-TTg v/v dạy nghề cho học sinh, sinh viên DTTS; Quyết định 66/2013/QĐ-TTg v/v hỗ trợ chi phí học tập đối với sinh viên DTTS; Quyết định số 42/2012/QĐ-TTg v/v hỗ trợ tổ chức, đơn vị sử dụng lao động là người DTTS tại khu vực miền núi, vùng ĐBKK; ); Quyết định số 971/QĐ-TTg) v/v đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 (có bao phủ các đối tượng, trong đó lao động người DTTS/nữ DTTS được hỗ trợ hoàn toàn chi phí đào tạo, tiền ăn…).

[10] Nghị định 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc  có các hoạt động đầu tư phát triển thông tin - truyền thông vùng DTTS…; Quyết định số 1163/QĐ-TTg v/v đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng DTTS giai đoạn 2017 - 2021; Đề án 219 v/v hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo; Quyết định 414/QĐ-TTg v/v tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào DTTS phát triển KTXH và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào DTTS Việt Nam giai đoạn 2019-2025.

[11] Trợ giúp pháp lý cho người DTTS, thực trạng và giải pháp tại https://tgpl.moj.gov.vn/Pages/hoi-nhap-phat trien.aspx?ItemID=1918&l=Nghiencuutraodoi

Ban Dân tộc - Tôn giáo, TW Hội LHPN Việt Nam
(Nguồn: Hội LHPN Việt Nam, 12/2023. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Phát huy vai trò của phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới” nhằm sơ kết 5 năm Chỉ thị 21-CT/TW ngày 20 tháng 01 năm 2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới)

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video