Một số giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận chính sách an sinh xã hội với phụ nữ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay
Ảnh minh họa: Chu Việt Bắc Để chính sách an sinh xã hội đến đúng đối tượng, đúng thời điểm và hiệu quả, chúng ta cần phải quan tâm đến giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận chính sách an sinh xã hội đối với phụ nữ DTTS.
1. Quan điểm chung về chính sách an sinh xã hội
An sinh xã hội là một phần quan trọng của chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta, bao gồm hệ thống cơ chế chính sách, biện pháp của nhà nước và xã hội nhằm hỗ trợ cho cá nhân, gia đình và cộng đồng đối phó với các rủi ro và tác động bất thường về kinh tế - xã hội và môi trường, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Theo Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam thời kỳ 2011-2020 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “an sinh xã hội là hệ thống các chính sách và các chương trình do nhà nước, các đối tác xã hội thực hiện nhằm đảm bảo mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe và các phúc lợi xã hội, nâng cao năng lực cho cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong quản lý và kiểm soát các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, rủi ro thiên tai, chuyển đổi cơ cấu, khủng hoảng kinh tế, dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản”.
Chính sách an sinh xã hội được hiểu là hệ thống chủ trương, phương hướng và biện pháp đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng “trước những biến động về kinh tế, xã hội và tự nhiên làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, người yếu thế, nạn nhân chiến tranh, người bị thiên tai địch họa. Thực thi chính sách an sinh xã hội là quá trình biến các chủ trương, phương hướng và biện pháp liên quan đến hệ thống an sinh xã hội thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước và sự tham gia rộng rãi của các tổ chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và toàn xã hội, nhằm hiện thực hoá những mục tiêu mà chính sách đã đề ra”.
Nhà nước có vai trò cơ bản trong thực hiện chính sách an sinh xã hội vì những lý do cơ bản sau: Thứ nhất, xuất phát từ một trong hai chức năng cơ bản của nhà nước - chức năng xã hội; Thứ hai, để khắc phục những mặt hạn chế của nền kinh tế thị trường; Thứ ba, quyền được an sinh là một quyền quan trọng của con người, được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Thứ tư, chỉ có nhà nước mới có thể đưa ra những cơ chế khuyến khích phù hợp và ảnh hưởng của mình để gây sức ép cần thiết trong việc thúc đẩy những đóng góp bắt buộc.
Định hướng của Ðảng Cộng sản Việt Nam về an sinh xã hội là: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng cao mức sống người có công; Rà soát, hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã hội; Ðẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số; Chú trọng các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích hộ nghèo, cận nghèo phấn đầu tự vươn lên thoát nghèo bền vững; Khuyến khích nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội của người dân; Thực hiện tốt chính sách việc làm công, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ có thời hạn cho người lao động mất việc khu vực công; Hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; Mở rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm xã hội; Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội; Thực hiện chuẩn nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập và các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016).
Mục đích của an sinh xã hội là tạo ra một mạng lưới bảo vệ an toàn cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội trước những rủi ro trong cuộc sống. Bản chất của an sinh xã hội là đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội, vì thế nó mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Đối tượng của an sinh xã hội là những thành viên trong cộng đồng trước những rủi ro trong cuộc sống do những tác động bất thường về kinh tế, xã hội, môi trường - đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn thương, người nghèo, vùng nghèo, vùng dân tộc, miền núi, nông thôn. Phương thức hoạt động của an sinh xã hội là thông qua các chính sách, biện pháp của Nhà nước và cộng đồng xã hội trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trụ cột “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo đồng thời phải được xã hội hóa cao, huy động sự tham gia của mọi tổ chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và của toàn xã hội” (Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng, Nguyễn Viết Thông, 2016); “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, 2021).
2. Những rào cản đối với việc tiếp cận chính sách an sinh xã hội của phụ nữ dân tộc thiểu số
Phụ nữ DTTS chủ yếu sống ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, điều kiện sống và sinh kế khó khăn: thiên nhiên, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, địa hình chủ yếu là núi cao hiểm trở, chia cắt phức tạp, tạo ra các vùng dân cư cư trú phân tán, cách biệt, giao lưu đi lại khó khăn.
Có thể thấy điều kiện tự nhiên, khách quan làm cho phụ nữ dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các cơ việc làm, nên sinh kế của họ chủ yếu là sản xuất nông, lâm nghiệp, mang tính tự nhiên, tự cấp, tự túc, sản xuất hàng hóa chưa thực sự phát triển. Việc làm nói chung và việc làm cho phụ nữ nói riêng còn rất ít, thường là những việc năng suất thấp và thu nhập thấp, bấp bênh.
Rào cản đối với phụ nữ DTTS nghèo trong việc tiếp cập vốn: mặc dù không quá khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn, nhưng các khoản vay thường không đáp ứng được nhu cầu của họ - cả về mức vay và thời hạn vay, vì các khoản vay thường là ngắn hạn và ít hơn so với nhu cầu. Bên cạnh đó, phụ nữ nghèo thường gặp khó khăn tiếp cận nguồn tín dụng chính thức, và thường phải tìm cách vay thông qua các kênh không chính thức với lãi suất cao hơn. Hoạt động sản xuất, đời sống của đồng bào vẫn còn nhiều khó khăn do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, giá một số loại nông sản không ổn định, có lúc giảm mạnh, khó tiêu thụ, trong khi giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng, nhất là giá phân bón. Nắng nóng kéo dài đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống, sản xuất của người dân, nguy cơ cháy rừng vẫn ở cấp cực kỳ nguy hiểm. Trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc xảy ra mưa dông, lốc, mưa đá, gió giật mạnh gây thiệt hại vật chất và người. Thị trường lao động, trong đó nhiều lao động người dân tộc thiểu số thiếu việc làm trong bối cảnh tốc độ phát triển kinh tế chung chậm lại, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn.
Cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém và không đáp ứng nhu cầu của đời sống của người dân, nhất là phụ nữ, các điều kiện về hạ tầng kinh tế, kỹ thuật còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống. Theo kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019 (Tổng cục thống kê, 2020), còn 35,5% hộ nghèo và cận nghèo, các địa bàn đặc biệt khó khăn, hệ thống giao thông thôn bản chủ yếu là đường đất, dân sinh, trong khi khoảng cách từ thôn, bản đến các trung tâm xã rất xa mà chưa có đường bê tông (có nơi hơn 50km); chưa có điện và chưa được dùng điện lưới quốc gia; hạ tầng thủy lợi, thông tin, liên lạc còn nhiều khó khăn, bất cập... ảnh hưởng rất lớn đến việc người dân nói chung, phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng gặp nhiều trở ngại trong cuộc sống và tiếp cận các chính sách của Đảng và Nhà nước.
Giáo dục và trình độ lao động thấp cũng là rào cản dễ nhận thấy nhất: trình độ học vấn và tay nghề của phụ nữ DTTS thấp so với các vùng khác, làm hạn chế cơ hội tiếp cận với việc làm phi nông nghiệp, trong khi việc làm nông nghiệp chỉ theo mùa vụ, thu nhập thấp và người nghèo thường có ít đất hoặc không có đất để sản xuất nông nghiệp.
Các phong tục tập quán, tín ngưỡng ảnh hưởng đến môi trường cung cấp các chính sách an sinh, mức độ chấp nhận về văn hóa và xã hội. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa truyền thống riêng về phong tục, tập quán, lễ hội, trang phục và thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau (với 8 nhóm ngôn ngữ) ... Các yếu tố đó tác động và hình thành nên đặc điểm tâm sinh lý, lối sống, ý thức tộc người… rất đặc thù của từng dân tộc. Sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau cả về văn hóa, và ngôn ngữ (theo 2 chiều hướng tích cực và tiêu cực), vẫn tồn tại một số tập quán sản xuất, đời sống còn mang tính lạc hậu, ít phù hợp và trở thành rào cản đối với sự phát triển.
Dân số phụ nữ DTTS Việt Nam hiện nay khá cân bằng so với nam giới, với số lượng là 7.045.349 người (so với nam là 7.073.907). Trong những năm qua, việc hỗ trợ tạo điều kiện để phụ nữ tiếp cập chính sách an sinh xã hội đã được các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội quan tâm nghiên cứu và đề xuất các giải pháp. Tuy nhiên, chưa có nhiều giải pháp để phụ nữ tiếp cận và thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội một cách thực chất và có hiệu quả.
Trong bối cảnh Việt Nam cam kết thực hiện Các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên Hợp Quốc, với nguyên tắc “không bỏ ai ở lại phía sau” thì những vấn đề DTTS và thúc đẩy bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi càng được quan tâm. Đảng và Nhà nước đã xây dựng khuôn khổ pháp luật quốc gia về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ khá tiến bộ, bao gồm các chính sách thúc đẩy bình đẳng giới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Về cơ bản, hệ thống các chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số khá toàn diện, bao quát các lĩnh vực, trong đó, các chính sách riêng dành cho phụ nữ dân tộc thiểu số cũng đã được xây dựng và thực hiện có hiệu quả[1]. Chính phủ cũng triển khai các chương trình, dự án nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện vùng có đông đồng bào DTTS. Luật Bình đẳng giới năm 2006, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2015 và Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 - 2020 đều có chính sách thúc đẩy bình đẳng giới ở vùng DTTS. Bên cạnh đó, còn có một số chính sách đặc thù cho vùng DTTS như Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2025, Đề án Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018 - 2025 và gần đây nhất là Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Một trong những mục tiêu của các chính sách này là bảo đảm an sinh xã hội, tạo sự chuyển biến tích cực trong thực hiện bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ ở vùng dân tộc thiểu số (Trịnh Thị Hoàng Anh, n.d.).
Hệ thống chính sách dân tộc do Chính phủ và các bộ, ngành ban hành bao gồm 136 văn bản (là các chương trình, chính sách dành riêng cho đồng bào DTTS, vùng DTTS và miền núi hoặc các chương trình, chính sách áp dụng chung cho cả nước nhưng có nội dung ưu tiên hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, vùng DTTS và miền núi)[2]. Chính sách về bình đẳng giới, trẻ em có 05 chính sách dân tộc, trong đó có 02 chính sách dành riêng cho đồng bào DTTS, vùng DTTS và miền núi.
Phụ nữ DTTS dường như vẫn nằm ở “điểm khuất của góc khuất”, ít cơ hội tiếp cận chính sách nói chung, ngoài hai chính sách trực tiếp là quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số và Đề án Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018 - 2025. Tình trạng bất bình đẳng giới đã chưa thực sự tạo điều kiện để phụ nữ mạnh dạn tiếp cận chính sách, đặc biệt là các chính sách an sinh xã hội. Vẫn còn tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào DTTSmà phụ nữ là người chịu nhiều rủi ro nhất. Việc kết hôn sớm và sinh con đã cản trở phụ nữ DTTS tham gia học tập dẫn tới hiểu biết hạn chế, khó đáp ứng được yêu cầu chất lượng, trình độ của thị trường lao động. Hiện tỷ lệ nữ tảo hôn vẫn là 23,5%, 9,5% sinh con tại nhà không có cán bộ chuyên môn hỗ trợ; Số trẻ em gái DTTS trong độ tuổi không đi học tại các cơ sở đào tạo là 14,5%, tỷ lệ biết đọc, viết chiếm 71,5% (Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê, 2020); Chỉ có 8,9% lao động nữ dân tộc thiểu số qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ. Vì vậy, khả năng tham gia các hoạt động chính trị - xã hội của phụ nữ DTTS cũng bị cản trở.
3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng tiếp cận chính sách an sinh xã hội của phụ nữ dân tộc thiểu số
Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền về bình đẳng giới nhằm nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của phụ nữ trong gia đình và xã hội
Nhận thức rõ ý nghĩa quan trọng của việc thúc đẩy bình đẳng giới trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, tuyên truyền thúc đẩy bình đẳng giới cần phải là một nội dung xuyên suốt trong các hoạt động nhằm nâng cao chất luợng cuộc sống của mọi người dân vùng DTTS và bảo đảm cơ hội và quyền hưởng thụ bình đẳng cho phụ nữ DTTS, đảm bảo không để ai bị bỏ lại phía sau trong công cuộc phát triển đất nước. Tạo điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận những nguồn lực chung và được tham gia, đóng góp và hưởng lợi, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau.
Giải pháp trước hết là cần tăng cuờng sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm quản lý của chính quyền, sự phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội khác, sự tham gia của mọi thành phần kinh tế của từng cá nhân, gia đình và toàn xã hội ở vùng DTTS đối với công tác bình đẳng giới. Huy động tối đa mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả công tác bình đẳng giới. Nâng cao trách nhiệm giải trình của các cấp, các ngành trong quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành trong giải quyết các vấn đề giới. Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các cấp. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, xử lý vi phạm pháp luật về bất bình đẳng giới và bạo lực trên cơ sở giới.
Một trong những điều kiện của công tác tuyên truyền bình đẳng giới hiệu quả là cam kết từ chính quyền địa phương, đồng thời tăng cường hơn nữa lồng ghép giới, bảo đảm đưa các chỉ tiêu, nhiệm vụ về bình đẳng giới ở các lĩnh vực vào việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các cấp, các ngành vùng DTTS. Đảm bảo việc giám sát và đánh giá trong quá trình thực hiện và bố trí nguồn lực nhằm thực hiện thành công các mục tiêu về bình đẳng giới ở vùng DTTS. Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong việc chỉ đạo công tác lồng ghép giới, thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới, trong giám sát và đánh giá, báo cáo thực hiện.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện thống chính sách, pháp luật về an sinh xã hội theo hướng có cam kết và chỉ số đầu ra
Các quan điểm, chủ trương của Đảng cần được tiếp tục thể chế hóa thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước, “xây dựng và thực hiện các chính sách đặc thù hỗ trợ phụ nữ ở vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo, phụ nữ là người dân tộc thiểu số” (Ban Bí thư, 2018) theo hướng đảm bảo bình đẳng giới thực chất vì sự phát triển bền vững. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về an sinh xã hội đối với phụ nữ dân tộc thiểu số và miền núi. Chính sách bình đẳng tạo điều kiện và bảo đảm sự tiếp cập chính sách an sinh xã hội cần nhìn nhận từ quan điểm “động” trong phát triển, nghĩa là cần phải phát huy nội lực của phụ nữ DTTS, hỗ trợ và giúp đỡ họ không rơi vào hoàn cảnh khó khăn, cùng cực, bị tách biệt xã hội mà vươn lên, tự chủ trong cuộc sống của mình. Phụ nữ dân tộc thiểu số cần được hưởng lợi trong quá trình phát triển từ những quyền được tiếp cận thông tin, quyền được hưởng các hỗ trợ của nhà nước, của xã hội và của cộng đồng, được tiếp cận một cách đầy đủ các dịch vụ thiết yếu trong đời sống xã hội như giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe và tham gia các hoạt động xã hội.
1) Chính sách giảm nghèo một cách bền vững, tạo điều kiện để phụ nữ dân tộc thiểu số giảm nghèo, giảm thiểu các rủi ro do thiên tai (lũ ống, lũ quét, sạt lở đất và cháy rừng…) ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần đổi mới công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo hướng thị trường mở, liên kết vùng và tiểu vùng.
2) Chính sách lao động - việc làm. Một vấn đề cơ bản hiện nay về lao động-việc làm, là khả năng tiếp cận thị trường lao động và các loại hình thị trường khác còn gặp nhiều cản trở, do đó đóng góp của phụ nữ vào kinh tế gia đình còn thấp. Đồng thời, tỷ lệ lao động được đào tạo nghề cũng thấp. Lao động của phụ nữ tập trung chủ yếu ở khu vực nông nghiệp có thu nhập thấp và không ổn định. Giải pháp cần là tiếp tục quan tâm công tác nâng cao chất lượng dạy, đào tạo nghề; tìm giải pháp cải thiện chỉ số đào tạo lao động, thực hiện chính sách vay vốn ưu đãi về việc làm gắn với thị trường lao động trong, ngoài nước và tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, cần gắn việc đào tạo lao động với đào tạo nghề tại chỗ cho phụ nữ dân tộc thiểu số của các tổ chức doanh nghiệp tại chỗ. Nghiên cứu hình thành các trung tâm môi giới việc làm dưới sự tài trợ của Nhà nước thông qua các chương trình mục tiêu nhằm kết nối doanh nghiệp tại chỗ với họ. Rà soát thực hiện chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp, trường nghề tại các vùng dân tộc thiểu số & miền núi, các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội vùng đặc biệt khó khăn. Thiết lập một hệ thống chỉ đạo tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
3) Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Về giáo dục, vấn đề cơ bản hiện nay là tiếp cận giáo dục còn bất lợi cho các trẻ em gái ở một số dân tộc vẫn còn thấp kém về mặt kinh tế-xã hội. Ngoài ra, khác biệt giới trong học vấn ở những nhóm người từ 30 tuổi trở lên vẫn tồn tại theo hướng phụ nữ có trình độ thấp hơn. Điều này cho thấy bất bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục của người dân tộc thiểu số mang tính lịch sử và nhiều mặt trong khi lĩnh vực này rất quan trọng để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và an sinh cho từng cá nhân. Cần củng cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú; hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú; đổi mới phương thức cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số đi học đại học. Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục nghề nghiệp, gắn đào tạo với nhu cầu của thị trường lao động ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
4) Về chăm sóc sức khỏe, điều cần quan tâm là phụ nữ dân tộc thiểu số vẫn chưa được tiếp cận đầy đủ tới dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Có tỷ lệ đáng kể phụ nữ dân tộc thiểu số khi sinh đẻ chưa nhận được hỗ trợ của nhân viên y tế có kỹ năng, nhất là các dân tộc cư trú ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Hầu hết các hệ thống y tế thường mang lại lợi ích cho nhóm phụ nữ có ưu thế trong xã hội hơn những phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn. Ngay cả khi các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em có đầy đủ về mặt kỹ thuật và có thể tiếp cận được thì những dịch vụ này vẫn không được sử dụng tối đa nếu không phù hợp hoặc không phải là mong muốn của bệnh nhân. Suy dinh dưỡng ảnh hưởng đáng kể tới sức khỏe và sự phát triển của phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số. Giải pháp cần quan tâm là phát triển và hoàn thiện hệ thống tổ chức y tế; củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, đổi mới chăm sóc sức khỏe ban đầu; khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng; dân số- kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản; phát triển nhân lực y tế.
5) Cải thiện dịch vụ và nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ. Xây dựng, nâng cấp, nâng cao hiệu quả quản lý, vận hành các công trình cấp nước sạch; hiệu quả, bền vững, đảm bảo cả số lượng và chất lượng nước cấp; đẩy mạnh hoạt động cung cấp nước sạch từ phục vụ sang dịch vụ hàng hoá; tăng cường kiểm tra, kiểm soát chất lượng dịch vụ; thông tin, giáo dục, truyền thông nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người dân.
6) Về chính sách trợ giúp xã hội đột xuất. Bảo đảm cho phụ nữ dân tộc thiểu số bị thiệt hại khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, đặc biệt chú trọng đến người nghèo ở những vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai gây thiệt hại nghiêm trọng, có chính sách phòng ngừa để hạn chế hậu quả, hỗ trợ đột xuất kịp thời và hiệu quả. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và phương thức tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp xã hội đột xuất, nâng mức hỗ trợ để đảm bảo người dân có thể khắc phục được rủi ro, ổn định đời sống và sản xuất. Mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng thực hiện an sinh từ gia đình - xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ban Bí thư (2018). Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20-1-2018 về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới .
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2020). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Tập 1). Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
- Hoài Anh. (n.d.). Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Retrieved from https://dangcongsan.vn/bao-dam-quyen-cho-nguoi-dan-toc-thieu-so/tin-tuc/viet-nam-co-136-chinh-sach-dan-toc-dang-duoc-thuc-thi-645543.html
- Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng, Nguyễn Viết Thông (2016). Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
- Tổng cục thống kê (2020). Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019. Hà Nội: Nxb Thống kê.
- Trịnh Thị Hoàng Anh. (n.d.). Trang thông tin điện tử của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Retrieved from https://tcdcpl.moj.gov.vn/ qt/tintuc/ Pages/thi-hanh-phap-luat.aspx?ItemID=1024
- Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê (2020). Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng xã hội của 53 dân tộc thiểu số 2019. Nxb Thống Kê.
[1] Theo Trịnh Thị Hoàng Anh. (n.d.). Trang thông tin điện tử của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Retrieved from https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-phap-luat.aspx?ItemID=1024
[2] https://dangcongsan.vn/bao-dam-quyen-cho-nguoi-dan-toc-thieu-so/tin-tuc/viet-nam-co-136-chinh-sach-dan-toc-dang-duoc-thuc-thi-645543.html
* **Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.